Thiền học 11
Chánh niệm
1. Định nghĩa
Chánh niệm là chi phần thứ bảy
trong Bát chánh đạo, có hai nghĩa.
Thứ nhất là sự thực hành một pháp
môn tu tập thiền định so với các Chánh đạo trước chỉ là tu tập các công hạnh của
thân khẩu ý. Khi tu đến Chánh Niệm, đệ tử Phật phải bắt tay vào thực hành một
phương pháp thiền định rõ rệt và quyết tâm. Nếu chưa biết tọa thiền thì ta chưa
tu tập được bước thứ bảy của Bát chánh đạo.
Vì là bước thứ bảy nên những giai đoạn trước đều là nền tảng quan trọng. Tuy
nhiên, nếu chỉ tu sáu giai đoạn trước mà không tiến thêm tu tập Chánh Niệm thì
ta chưa thực hiện được đầy đủ sự tu hành trong đạo Phật.
Còn phương pháp dụng công nhiếp
tâm cho thiền định thì Phật cũng đã linh động dạy rất nhiều cách thức, và sau
này các đại sư cũng chế tác thêm. Bây giờ thì chúng ta phải khảo sát mọi vấn đề
liên quan đến Thiền để biết lựa chọn pháp môn hợp lý nhất cho bản thân mình và
cho nhiều người khác. Những kiến thức về khoa học, y học, khí công, Âm dương,
cũng giúp chúng ta trong việc phân tích các pháp môn tu tập.
Thứ hai, Chánh Niệm là trạng thái
của Tâm đã có kết quả tâm linh, mà biểu hiện rõ nhất là không bao giờ quên mất
sự dụng công tu tập. Vọng tưởng có thể còn, nhưng không đủ sức làm tâm xao lãng. Khi đã đạt được Chánh Niệm,
tâm hành giả thường xuyên rỗng rang sáng suốt, và ít vọng tưởng. Vọng tưởng
manh nha muốn khởi thì đã bị phát hiện và tự diệt trừ. Chúng ta có thể nói
Chánh Niệm chính là tâm không xao lãng khi
an trú trong pháp môn tu tập.
2. Những nguyên nhân làm tâm sao lãng
Tâm bị xao lãng có nghĩa là tâm
không thể giữ gìn sự dụng công liên tục thường xuyên. Khi vọng tưởng khởi lên
là lập tức một màn đen cũng nhanh chóng che tâm, và cũng ngay lúc đó, tâm bị
trôi theo vọng tưởng để lang thang vào các vấn đề vẩn vơ. Do đó, pháp môn mà
hành giả đang áp dụng cũng biến mất.
Ví dụ, đang theo dõi hơi thở, vọng
tưởng khởi lên, hành giả quên hơi thở, hoặc còn theo dõi nhưng không chăm chú nữa
vì bận chú ý vào những vấn đề của vọng tưởng.
Vọng tưởng làm tâm bị xao lãng là
nỗi đau khổ ghê gớm của người tu thiền. Nhiều người trở nên chán nản rồi bỏ cuộc,
và một khi đã bỏ thiền tập thì đường giải thoát đã đóng lại. Nhiều người cố gắng
suốt cả đời nhưng cũng loay hoay khi được khi mất chứ không thể tránh được sự
xao lãng dứt khoát mãi mãi. Tâm không xao lãng, có chánh niệm, khiến ta phấn khởi
tin tưởng đi tới. Còn tâm xao lãng dễ làm ta nản chí. Tuy nhiên, nếu không quyết
chí tu tập thiền định thì sự giải thoát là vô vọng. Ta phải xác định lập trường
là du khó khăn cách mấy vẫn quyết lòng theo đuổi.
Khi Chánh niệm đã xuất hiện thì
có thể vọng tưởng còn khởi nhưng tâm vẫn không bị xao lãng, vẫn giữ được pháp
môn thực hành, vẫn không bị dẫn theo các vấn
đề của vọng tưởng, và đặc biệt là nhanh chóng diệt trừ vọng tưởng.
Khi chánh niệm chưa xuất hiện,
tâm dường như bị u tối, vọng tưởng có sức mạnh lôi kéo sự chú ý của tâm đi theo
những vấn đề của nó. Ở đây xuất hiện một khái niệm quan trọng là sự chú ý. Nếu sự chú ý luôn luôn ở lại với
pháp môn. Có nghĩa là chánh niệm có mặt. Nếu sự chú ý rời khỏi pháp môn để hướng
theo vọng tưởng thì Chánh niệm biến mất, là bị thất niệm, là bị xao lãng.
Khi dụng công, ta luôn cố gắng
chú ý và Hơi thở, vào pháp môn đã chọn, nhưng một động cơ bí mật có sức mạnh
kéo tâm ta trôi theo vọng tưởng. Động cơ bí mật đó chính là nghiệp. Nghiệp là một yếu tố quan trọng
hàng đầu trong việc nhiếp tâm của Thiền định. Chính Nghiệp đã điều khiển hầu hết sự phát triển của Thiền định. Ta nhiếp
tâm dễ hay khó đều do Nghiệp quyết định. Thậm chí ta có duyên gặp đường lối
chân chính hay sai lầm cũng do Nghiệp. Tâm ta hay bị xao lãng hay ít bị xao
lãng cũng là do Nghiệp. Thậm chí sự tinh tấn của ta cũng có bàn tay của Nghiệp.
Thiện Nghiệp là động cơ chủ yếu dẫn
ta vào định. Ác Nghiệp là rào cản chính ngăn ta nhiếp tâm khiến ta xao lãng. Vì
vậy, người tu phải huân tập thiện nghiệp suốt cả đời. Những thiện nghiệp chính có thể được liệt kê
như sau:
-
Tâm lý rất
đạo đức. Tu dưỡng đạo đức cho nội tâm bao gồm nhiều đề tài (xin xem Tâm Lý
Đạo Đức)
-
Giúp mọi
người an vui hạnh phúc. Điều này khiến ta được kết quả dễ có an vui trong
tâm
-
Tôn kính
Phật và chư Thánh. Nhân quả quy định rằng ta kính trọng những vị thánh thì
ta sẽ dần dần đạt được những tính chất của vị thánh đó.
-
Giúp mọi
người hiểu biết đạo lý. Điều này khiến tâm ta an trụ trong chánh pháp mãi
mãi.
-
Giúp mọi
người cùng tu tập thiền định. Muốn người khác được điều gì, ta sẽ được điều
đó.
Khi ác nghiệp quá khứ đã được vơi
nhẹ, khi thiện nghiệp hiện tại đã huân tập được nhiều, tự nhiên tâm ta trở nên
trầm tĩnh, sáng suốt, dễ chú tâm theo hơi thở, ít bị vọng tưởng làm xao lãng. Rồi
chỉ cần khéo léo tinh tấn nhẹ nhàng theo dõi hơi thở ra vào, tâm ta có thể
nhanh chóng xuất hiện trạng thái Chánh
niệm tỉnh giác.
Người không biết gây tạo công đức,
cứ loay hoay lo nhiếp tâm, có khi cả đời chưa đạt được trạng thái Chánh niệm tỉnh
giác.
Khi còn là học Tăng, học Ni,
chúng ta phải vất vả cùng một lúc vừa học giáo lý, vừa tu tập thiền định, vừa
công quả tạo phước. Đến khi nào công đức sung mãn, ta mới có thể nhập thất
chuyên chú thiền định để tiến sâu vào các mức định. Nhưng cũng đã có nhiều người
chưa cần nhập thất mà tâm đã khai mở chỉ vì phước đã đủ. Thời gian dành cho việc
gây tạo công đức càng nhiều thì sau này thời gian dành cho việc dụng công thiền
định càng đỡ phải tốn kém hơn.
Một yếu tố làm tâm dễ xao lãng nữa là sự tham đắm thế gian. Khi ta
ham muốn nhiều điều trong cuộc đời phiền động này thì đương nhiên tâm ta phải vận
động suy nghĩ tính toán. Vì vậy, điều kiện để bớt xao lãng là phải không tham đắm
thế gian. Tuy nhiên, ở đây tồn tại một nghịch lý rất khó vượt qua, đó là tâm trạng
không tham đắm thế gian cũng rất gần
với tâm trạng vô trách nhiệm với cuộc đời, và điều này khiến người tu trở nên
thụ động, tiêu cực, kém phước. Muốn có phước, ta phải tận tụy với con người, với
cuộc đời, nhưng cũng dễ bị tham đắm cuộc đời.
Do đó ta phải khéo giữ cho mình
cái Trung đạo là vừa tận tụy với cuộc đời, vừa thản nhiên không tham đắm cuộc đời.
Nhiều bài kinh Phật cũng hay khuyến
cáo người tu về tính tạm bợ hư ảo của cuộc đời để chúng ta đừng tham đắm thế
gian, nhưng rất nhiều bài kinh khác cũng nhắc nhở chúng ta về tấm lòng từ bi
thương yêu tất cả chúng sinh. Đó là Trung đạo chân chính nhất. Lệch qua một
bên, chúng ta vĩnh viễn không thể giải thoát.
Một yếu tố tiếp theo làm
tâm dễ xao lãng là bệnh lý ở thần kinh não. Khi cuống não bị suy yếu, võ não lập
tức trở nên hưng phấn sôi động và tư tưởng tự động tuôn trào không cách gì kiểm
soát được. Bị bệnh này, hành giả không thể chuyên chú được. Bị bệnh này, hành
giả không thể chuyên chú tập trung vào pháp môn tu tập được vì vọng tưởng rất mạnh,
cuốn sự chú ý trôi theo hết vấn đề này sang vấn đề khác. Người ta cũng gọi đây
là bệnh trầm cảm, suy nhược thần kinh … muốn chữa bệnh này, hành giả phải vừa uống
thuốc bổ chân âm, vừa luyện tập khí
công tích lũy nội lực ở đan điền, vừa
lạy Phật sám hối, vừa gây tạo công đức rất nhiều.
Ngược lại, ai có cuốn não mạnh
thì vỏ não rất yên lắng, dễ thành tựu Chánh niệm tỉnh giác.
Phương pháp biết rõ toàn thân (cảm
giác toàn thân khi thở vào thở ra, Nikaya) của Phật dạy cũng giúp củng cố Chân
âm rất tốt. Phương pháp an trú tâm tại một điểm ở Đan điền cũng giúp phát triển
Chân âm; tuy nhiên phải biết kết hợp giữa thấy thân là vô thường hư ảo với phép
an trú tại một điểm ở Đan điền.
Những tư tưởng thấp hèn, ích
kỷ, kiêu mạn, hơn thua, oán hận, dục vọng… làm cho thùy trán bị mờ tối và tâm dễ
bị xao lãng. Ngược lại, khi Chánh niệm tỉnh giác xuất hiện, thùy trán trở nên rỗng sáng, máu lưu
thông đầy đủ vào các mạch máu não, cảm giác sảng khoái xuất hiện. Tuy nhiên
hành giả không được an trú tâm nơi trán khiến cho hao mất Âm lực và não bị căng
thẳng. Một vài trường phái chủ trương an trú tâm trước trán hoặc đỉnh đầu là do
không quan tâm đến cấu tạo khí lực của
cơ thể.
Những tư tưởng thánh thiện như vị
tha, khiêm hạ, nhường nhịn, độ lượng, trì giới… giúp cho thùy trán rỗng sáng
hơn. Vì vậy, người tu thiền phải biết thực hành Chánh Tư duy là huân tập những
tư tưởng tốt lành, phải đối diện với nghịch cảnh để thử thách đạo đức, phải nhận
lấy trách nhiệm với chúng sinh để phát triển từ bi. Phải nghiêm khắc sám hối mỗi
khi tâm còn xuất hiện những tư tưởng bất thiện.
3. Giá trị của chánh niệm
Khi tâm hành giả trở nên sáng tỏ,
vọng tưởng bớt khởi, hoặc vọng tưởng manh nha là bị phát hiện từ trong sâu kín
liền, không còn bị xao lãng ra khỏi pháp môn tu tập nữa, lúc đó, hành giả thật
sự thành tựu Chánh niệm tỉnh giác. Đó là một trạng thái mới của tâm, khác nhiều
so với nội tâm loạn động trước kia. Chính nhờ kết quả ban đầu này mà chúng ta cảm
thấy phấn khởi tin tưởng để tiến bước trên đường tu tập. Tuy nhiên nếu không được
răn nhắc, chúng ta có thể xuất hiện một số suy nghĩ sai lầm đưa đến đổ vỡ về
sau.
Những suy nghĩ sai lầm có thể là vội
vã tự cho mình đã chứng ngộ, đã giác ngộ, đã ngộ đạo, kiến tánh. Có người
cho rằng trạng thái Chánh niệm đó chính là Phật tánh. Chân tâm siêu việt phi
thường. Vì vội vã đề cao mình quá đáng nên chúng ta có thể bị tổn phước nặng nề
để rồi bị quả báo thê thảm về sau.
Một suy nghĩ sai lầm khác là
không biết quý trọng kết quả Chánh niệm đã đạt được, không biết sử dụng Chánh
niệm cho sự tu hành sắp tới. Chánh niệm có công năng giúp ta dễ biết rõ lỗi lầm
và vọng tưởng trong tâm. Ta phải tận dụng tính chất đặc biệt này của Chánh niệm
để kiểm soát lỗi lầm và vọng tưởng. Lúc nào ta cũng phải giữ gìn sự tỉnh giác rỗng
rang đó để nhanh chóng phát hiện vô số lỗi lầm và vọng tưởng thầm kín vẫn đang
tiếp tục dấy khởi.
Khi đang tỉnh giác, ta phải tự nhắc
thầm rằng “nội tâm vẫn còn nhiều phiền động”
mặc dù có thể ta không thấy được hết những phiền động đó ra sao. Lúc ngồi thiền
theo dõi hơi thở, ta tác ý nhẹ nhàng, “thở
vào biết tâm còn phiền động, thở ra biết tâm còn phiền động”. Nhiều người
thấy tâm bớt vọng tưởng đã tưởng lầm rằng tâm đã thanh tịnh. Thật ra vọng tưởng
bí mật hơn ta tưởng. Một chút yên lắng bên ngoài chưa có đáng gì so với vô số vọng
tưởng còn nguyên sức mạnh tiềm ẩn bên trong sâu kín. Chỉ cần ta thiếu công đức,
thiếu cảm giác là chúng sẽ trỗi dậy quật ngã ta, còn tệ hơn hồi chưa biết tu.
Vì chánh niệm xuất hiện song song
với sự khai mở của thùy trán nên hành giả luôn có cảm giác là có một cái gì
trước mắt hiện tiền sáng tỏ. Phật cũng có dùng từ “an trú chánh niệm trước mặt”; các thiền sư cũng hay nói “sờ sờ trước
mặt” cũng chung một ý này. Tuy nhiên nếu ta chạy theo cái sáng sáng ở trước mắt
thì lại sẽ hư mất công phu.
Điểm quan trọng ở đây là, mặc dù
Chánh niệm tạo ra cảm giác sáng rõ trước mắt, nhưng chúng ta phải để ý khắc
toàn thân, để ý ở một điểm Đan điền, để ý ở vùng não phía sau để kiểm soát ý niệm
vi tế. Chánh niệm sẽ giúp ta không quên pháp môn đang được sử dụng, giúp ta
nhanh chóng phát hiện lỗi lầm và vọng tưởng mới manh nha.
Câu hỏi: Hãy phân tích sự xao
lãng của mình để tìm xem nguyên nhân từ đâu
(Nguồn : Giáo trình Thiền học, Tỳ
Kheo Thích Chân Quang, Nhà xuất bản tôn giáo)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét