Thiền học 1
Khái niệm về thiền
- Ý nghĩa từ vựng thiền
Thiền là từ chữ Hán, …, đọc đủ là Thiền na, có xuất xứ từ tiếng Pali Jhàna, có nghĩa là gom tâm lại, nhiếp tâm lại. Tuy nhiên, ngữ căn Jhà lại có liên quan đến ý nghĩa thiêu đốt.
Jhàpeti Thiêu đốt
Jhàypana sự đốt lửa
Jhàyana sự thiêu đốt, sự tham thiền
Jhàyì người tham thiền
Jhàyaka người tham thiền
Có lẽ ngày xưa những người ngồi thiền hay đốt lửa gần đấy hoặc thấy trong người ấm lên như có đốt lửa nên đã sử dụng hai từ này gần nhau như vậy
Về sau, về phía Trung Hoa, người ta thêm từ phía sau như Thiền quán, Thiền định, Thiền tọa, Thiền tông, Thiền khách, Thiền đường, Thiền sư,… ít ai dùng cả hai âm Thiền na như xưa.
Tuy nhiên, ý nghĩa chính của Thiền vẫn là sự thực hành đưa đến tâm trí an tĩnh, không xuất hiện ý nghĩ, không dấy động tình cảm, và vẫn sáng suốt.
Người ta liên hệ Thiền với tư thế ngồi kiết già bất động vì từ đức Phật cho đến các vị thánh nhân đều ngồi thiền với tư thế đó.
Sự phát triển rộng hơn cho phép người ta thực hành Thiền khi đi bộ thong thả, đúng phương pháp. Còn đối với những người có khả năng giữ được tâm, kiểm soát tâm thường xuyên thì được gọi là người biếtThiền trong bốn oai nghi đứng đi nằm ngồi.
- Trước Phật đã có thiền
Theo lịch sử của Phật thì khi mới từ bỏ hoàng cung xuất gia làm sa môn, Phật đã đến tham học với hai vị đạo sĩ nổi tiếng đương thời là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Hai vị này được cho là đã chứng được Vô sở hữu xứ định và Phi tưởng Phi phi tưởng xứ định. Đó đã là hai mức định cực kỳ cao, có thần thông, và gần sát tới bờ mé của Giải thoát.
Đức Phật đã nhanh chóng chứng được y hệt như các vị thầy của mình và được các vị đó quý trọng mời hợp tác trong việc hướng dẫn cho những người còn lại. Đức Phật đã nêu ra một câu hỏi về bản ngã và vì không được giải đáp thỏa đáng, Ngài đã ra đi để từ mình giải quyết phần còn lại. Sau này Đức Phật đã tự mình giải quyết vấn đề trọng yếu đó và thành lập một tôn giáo mới cho thế giới.
Các vị đạo sĩ thời đó chịu ảnh hưởng của các kinh điển Vệ đà (Veda) gồm bốn quyển và Áo nghĩa thư (Upanishad) – Veda có nghĩa là trí tuệ; Upanishad có nghĩa là ngồi với nhau. Vệ đà có trước rất sớm khoảng 1000 năm trước công nguyên; Áo nghĩa thư có khoảng 200 năm trước công nguyên. Giáo nghĩa của các kinh điển này thường chú trọng đến Brahman (Phạm Thiên) và Atman (Bản ngã). Thiền định được xem là phương pháp để Atman hòa đồng cùng Brahman. Một đại ngã, thần ngã, thánh ngã cũng được xem là mục tiêu của sự tu tập. Nhưng Đức Phật đã phát hiện ra là tất cả trạng thái đó đều còn chỗ cho Bản ngã tồn tại nên không thể giải thoát. Đức Phật đã tự mình tìm cách thoát được Bản ngã sau 49 ngày nhập định dưới cội cây Bồ đề và đạt được giác ngộ. Đây là điểm mấu chốt khác nhau giữa thiền của đạo Phật và thiền của ngoại đạo Ấn độ.
- Sau Phật vẫn tiếp tục phát sinh nhiều phái Thiền khác
Ấn độ giáo mượn nhiều ý tưởng của đạo Phật để hoàn thiện chính mình, xuất hiện đường lối Yoga nổi tiếng ngày nay. Yoga vừa luyện thân thể, vừa luyện định lực, vừa luyện luân lý.
Duy thức học trong Phật giáo Phát triển đi sâu vào phân tích tâm lý để mong tìm sự giải thoát. Rồi Mật tông xuất hiện, phát triển mạnh về phía Tây tạng, đưa thêm thần chú, ấn quyết, mạn đà la (mantra) vào nghi thức và sự tu luyện tạo nên một Phật giáo có quyền năng huyền bí.
Thiên Thai tông của Ngài Trí Khải cũng gây ảnh hưởng rất lớn trên phương diện tu tập thiền quán.
Cuối cùng là Thiền tông với vô số huyền thoại và thiền sư chiếm ưu thế gần như tuyệt đối suốt nhiều thế kỷ ở Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên.
Những phái thiền về sau này tuy vẫn thuộc về đạo Phật, nhưng đường lối tu hành bên trong vẫn có sự sai khác với đạo Phật từ thuở ban đầu. Cũng có một vài lối Thiền có khuynh hướng cực đoan, hai bài bác, kể cả bài bác Giáo lý.
- Thiền và thế giới hiện nay
Hiện nay Thiền đang được nghiên cứu khắp nơi trên thế giới như một môn vệ sinh tinh thần, thể dục trí não. Nhiều quốc gia đã mạnh dạn đưa môn thực hành thiền vào học đường, trại giam. Nhiều tín đồ, tu sĩ của các tôn giáo khác cũng âm thầm nghiên cứu thực hành Thiền.
Đồng với xu thế phát triển Thiền của Phật giáo, thì Khí công của Trung quốc, Yoga của Ấn Độ giáo cũng đang cạnh tranh phổ biến. Phải nói thể ký 21 này, thế giới sẽ chứng kiến nhiều điều ngoạn mục về xu thế tu tập tâm linh trên khắp hành tinh. Quốc gia nào chậm bước sẽ lạc hậu tức khắc.
- Thiền và Phật giáo Việt Nam
Sự tu tập Thiền của Việt Nam chỉ phát triển trở lại khoảng 30 năm gần đây, và đang trở thành trọng tâm của Phật giáo, mặc dù khuynh hướng Niệm Phật, Tụng kinh vẫn còn nhiều ưu thế. Đó là do Phật giáo Việt Nam đang có khuynh hướng hòa theo sự Phát triển của Phật giáo thế giới vốn thiên vị về Thiền. Tuy nhiên, số Tăng sĩ Việt Nam thực hành Thiền một cách đều đặn ổn định mỗi ngày thì chưa cao, nhiều người tu Thiền tùy hứng tùy lúc, chưa xem Thiền là công phu không thể thiếu của sự tu hành đạo Phật. Chúng ta phải hiểu rằng Thiền đem lại sức mạnh cho Đạo Phật để mà gắng công tu tập.
- Thiền trong một tổng thể
Mặc dù Thiền là phương pháp nhiếp tâm vào thanh tịnh yên lắng, nhưng Thiền không thể tách rời khỏi một tổng thể của con người. Tổng thể đó gồm những điều như sau: Sức khỏe, Đạo đức, Giới hạnh, Công đức, Đạo lý, Kỹ thuật. Nghĩa là thiền giả phải sống một đời sống lành mạnh, làm được nhiều việc phước, có sức khỏe, hiểu về Giáo lý, nắm được phương pháp nhiếp tâm trong khi ngồi thiền… Thiếu một trong những điều trên đây, Thiền không thể thành tựu.
- Thực hành là quan trọng
Muốn hiểu Thiền thì phải thực hành Thiền với tất cả quyết tâm. Muốn hiểu sâu đạo Phật cũng phải thực hành Thiền với tất cả ý chí. Chúng ta không thể nghiên cứu Thiền bằng cách nghiền ngẫm lý thuyết. Sự thực hành Thiền sẽ rất gian khổ, nếu thiếu ý chí và thiện căn, người ta sẽ bỏ cuộc.
Câu hỏi: Điểm khác biệt giữa Thiền của đạo Phật và Thiền của Ngoại đạo là chỗ nào?
Trích từ: Giáo trình Thiền học, Tỳ Kheo Thích Chân Quang Biên soạn, Nhà xuất bản tôn giáo. Nghe bài giảng chi tiết
Bài post của tác giả rất hay, thank bạn đã chia sẻ.
Trả lờiXóaThông tin thêm : Thiền cho doanh nhân
Bài post của tác giả thật cần thiết, cám ơn bạn đã chia sẻ.
Trả lờiXóaThông tin thêm : Thiền