Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013

Thiền học 12 - Năm triền cái

Thiền học 12
NĂM TRIỀN CÁI
Định nghĩa
Năm Triền Cái là năm lớp được ngăn che trong tâm khiến ta không thể nhập định được, và được liệt kê như sau:  -Tham dục – Sân hận – Hôn trầm – Trạo cự - Hoang mang (nghi)
Theo tiêu chuẩn được quy định bởi đức Phật, sau khi chứng được Chánh niệm tỉnh giác một thời gian, hành giả sẽ diệt trừ được Năm Triền cái để chuẩn bị chứng nhập Sơ thiền. Đây là một giai đoạn không thể thiếu, và cũng là thước đo chính xác cho công phu tu hành của chúng ta. Nếu ta thành tựu được những trạng thái của tâm linh, nhưng kiểm thấy mình vẫn chưa hết Năm Triền cái thì biết ngay những trạng thái lạ đó chưa phải là sự tiến bộ đúng hướng của Thiền định Phật giáo; có khi chúng chỉ là những ảo giác tạm thời. Phá trừ được Năm Triền cái vừa thuộc về lĩnh vực Đạo đức (Tham dục, Sân hận), vừa thuộc về Trí tuệ (Hoang mang), vừa thuộc về năng lực (Hôn trầm, Trạo cử)
Tham dục
Có hai nghĩa, một là tham lam muốn nhiều vật chất tài sản cho mình, hai là ái dục.  Đây là hai triền cái (ở phương diện khác còn gọi là Kiết sử) căn bản của chúng sinh. Triền cái này không đơn giản chỉ là những ham muốn thoáng qua khi có khi không, mà thật sự là một cấu trúc bền vững nằm ngăn chặn được trong tâm khiến ta luôn bị xao động bất an.
Trong đời sống bình thường, có khi ta cũng không khởi lên tham muốn, nhưng không có nghĩa là hết tham muốn bởi vì triền cái Tham dục vẫn còn nguyên bên trong. Triền cái này vô hình, khó thấy, chỉ khi gặp duyên kích động liền tuôn trào xúi giục ta làm những điều không chính đáng. Khi Triền cái này tồn tại, ta sẽ động tâm khi trông thấy tiền bạc, xe cộ, nhà cửa sang trọng; ta sẽ động tâm khi trông thấy người khác phái xinh đẹp. Thậm chí khi không trông thấy những điều đó, ta vẫn có thể tự tưởng tượng để thèm khát ước ao.
Ngược lại, khi triền cái Tham dục được phá trừ, ta có niềm vui Thiền định tự thân, tự nhiên cảm thấy nhẹ nhàng thanh thản, không bận tâm ham muốn những điều vật chất hay sắc dục nữa. Lúc đó, ta sẽ cảm thấy buồn cười về những ham muốn tầm thường trước đây, vì nó vô nghĩa, thấp hèn. Khi chưa phá trừ được triền cái tham dục, ta cứ cho rằng vật chất hay sắc tính là thú vui. Đến khi phá được, ta mới thấy nó trơ trẽn và ràng buộc.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là chỉ bởi Thiền định mà ta có thể vượt qua Tham dục. Thiền định chỉ là nhân duyên cuối cùng. Trước đó là biết bao nhiêu công đức phải tích lũy, ý chí phải rèn luyện. Nhiều người chứng được Thiền định nhưng vẫn không phá trừ được triền cái Tham dục bởi vì từ trước không hề có ý niệm từ bỏ Tham dục.
Đôi khi Giới điều buộc người tu phải sống đời đạm bạc để phù hợp với đạo đức Vô tham. Tuy nhiên nếu người không khéo giữ gìn tâm hồn mình thì dù sống trong cảnh đạm bạc mà tâm tư vẫn thèm muốn ước mơ về cảnh đời sang trọng. Chỉ khi nào phá trừ được triền cái Tham dục, ta mới thật sự tự tại với vật chất và nhan sắc.
Hiện nay phim ảnh đồi trụy tràn lan trong mọi ngõ ngách làm kích động dục tham của con người và gây nên biết bao tội lỗi, đổ vỡ, đau khổ cho xã hội. Những hình ảnh lõa lồ, tình dục bày hiện làm băng hoại tâm hồn tốt lành của trẻ. Ngay cả người tu, nếu không có một công phu tu tập vững chắc, cũng sẽ bị chao đảo nếu vô tình trông thấy trên sách báo hay pano quảng cáo có in hình người hở hang. Thế giới này nay đã trở nên dễ dãi cho mọi người tiếp cận với Tham dục, và do đó, đã tăng thêm rất nhiều cơ hội cho triền cái Tham dục phát triển một cách nguy hiểm. Người tu phải được trang bị nhiều gấp mấy chục lần ngày xưa về ý thức giữu gìn sự vô nhiễm. Những cách giáo dục về đạo đức vô nhiễm của chư Tổ không còn đủ cho một thế giới đầy rẫy sự nuông chìu tham dục như bây giờ. Phải có thêm nhiều bước tiến về giáo dục đạo đức vô nhiễm cho người tu hôm nay.
Ngày nào đó loài người phải mạnh mẽ chống loại văn hóa khêu gợi tham dục của con người. Tham dục là một bản năng, bản năng nguy hiểm, cần phải được kiểm soát, chứ không phải được nuông chìu. Tây phương đã sai lầm khi quan niệm rằng con người được tự do thỏa mãn tham dục. Văn hóa độc hại của Tây phương đã lan tràn và phá hoại thế giới này từng ngày. Thế giới đang cần những người sáng suốt và dũng cảm biết đứng lên chống lại văn hóa bẩn thỉu kích động dục tham như thế.
Riêng người Việt Nam ta có thể lực kém, hình thức nhỏ nhắn, cần phải tiết kiệm năng lực cho công cuộc dựng đất nước, gia đình và tu dưỡng bản thân, lại cần hơn ai hết đời sống lành mạnh ít tham dục. Nhưng văn hóa đồi trụy đã đẩy quá nhiều người vào ăn chơi trác táng sa đọa và hoang phí năng lực. Đó cũng là một nguyên nhân làm sa sút kinh tế khiến đất nước không bao giờ bắt kịp nhân loại. Ít ai ngờ rằng muốn xây dựng kinh tế lại phải bắt đầu bằng việc xây dựng một nền văn hóa lành mạnh cho dân tộc trước đã.
Sân
Sân có nghĩa là nóng nảy bực bội, nặng hơn thì có nghĩa là thù hận. Sân hận có nguồn gốc sâu xa từ ích kỷ và ganh ghét. Tuy nhiên Sân hận cũng tự mình là một cấu trúc rất bền vững trong nội tâm nên rất khó được phá trừ. Ta không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả trạng thái của Sân hận, chỉ biết đặt tên cho cái trạng thái làm ta căng thẳng, bất mãn, bực bội, hận thù, sôi động, khó chịu, tức tối…. tên là như thế. Nói chung, tất cả tính chất kể trên của triền cái Sân hận đều ngược với tính chất của Giải thoát nên một người muốn tu tập giải thoát phải quyết tâm vượt qua Sân hận. Nếu ngày nào ta còn khởi lên sân hận thì phải tự mình biết mình còn dở kém, không được biện minh cho sân hận bằng bất cứ phương tiện nào, không được đổ thừa cho hoàn cảnh, cho sai lầm của người khác. Cũng có thể người khác đã phạm sai lầm và sai lầm của họ ảnh hưởng đến ta, nằm trong phạm vi trách nhiệm của ta, nên ta phải có thái độ. Nhưng thái độ của người đã phá trừ được triền cái Sân hận khác hẳn với thái độ của người chưa phá được .
Người chưa phá trừ được triền cái Sân hận sẽ tức giận và phản ứng gay gắt vì cẩm thấy bị thiệt hại, tổn hại, xúc phạm. Sai lầm của người khác lại gây nên thiệt hại cho ta nên ta nóng giận. Sân hận có nguồn gốc từ Vị kỷ là vậy.
Còn người đã phá trừ được triền cái Sân hận cũng có khi im lặng trước sự sai lầm của người, cũng có khi có thái độ để bày tỏ quan điểm, nhưng hoàn toàn không vì khó chịu bởi thiệt hại quyền lợi, mà chỉ vì muốn người kia  không được sai lầm tiếp tục. Hoặc im lặng, hoặc bày tỏ thái độ, tâm của người hết Sân cũng rất nhẹ nhàng, không gợn một chút xao động bực tức nào. Đây là điểm đánh giá rất rõ để biết ta còn Sân hận hay không.
Nhưng cũng không phải đơn giản chỉ là do tu tập Thiền định mà ta phá trừ được triền cái Sân hận. Phải do từ nhiều năm tháng trước ta đã thuần thục một nội tâm không còn ghét  bất cứ ai trên đời. Công phu dọn dẹp cái ghét này mới thật sự là tế nhị và khó khăn. Đây cũng là dấu hiệu của một đệ tử Phật chân chính. Có khi một Bồ tát nghịch hạnh thị hiện làm vua cầm binh đánh giặc, và dĩ nhiên phải giết giặc, nhưng lòng Ngài cũng không hề ghét ai, chỉ vì đại cuộc mà làm thôi. Cũng giống như một quan tòa khi tuyên án tử hình hay án tù cho một phạm nhân cũng chẳng bận tâm thương ghét, chỉ buộc phải răn đe hoặc ngăn chận tội lỗi của kẻ xấu. Bình thường thì đệ tử Phật phải không được ghét ai, phải dọn sạch cái ghét trong lòng mình. Chính nhờ công đức tu tập lâu ngày như thế mà sau này khi vào Thiền định, ta sẽ có lúc phá trừ được triền cái Sân hận.
Hôn trầm
Một trở ngại mà người tu Thiền phải vất vả đối phó là buồn ngủ, hôn trầm.
Thật ra giấc ngủ là một nhu cầu quan trọng cho cơ thể. Thiếu ngủ, con người sẽ nhanh chóng suy sụp sức khỏe và tinh thần. Nếu hoàn toàn không được ngủ, con người có thể bị điên rồi chết. Trạng thái ngủ giúp cơ thể phục hồi năng lực, chữa những bệnh tiềm tàng, tái tạo chức năng não bộ. Bình thường con người phải ngủ đủ một số thời gian nhất định tùy theo thể trạng của mỗi người.
Tuy nhiên, khi cần tỉnh táo để ngồi thiền và ngồi lâu thì sự đòi hỏi của giấc ngủ lại là một điều khó chịu. Khi trạng thái Chánh niệm tỉnh giác được kéo dài và tâm trở nên vắng lặng sâu xa, tự nhiên nhu cầu ngủ lúc đó biến mất. Hành giả an trú trong Chánh niệm tỉnh giác và không cảm thấy buồn ngủ dù thức rất khuya. Nhưng hành giả cũng không được lạm dụng khả năng thức lâu dài của mình, vẫn phải dành thời gian cho não bộ chìm vào giấc ngủ, vì ngay cả đức Phật cũng phải ngủ vài giờ trong đêm.
Có những thiền sư chống lại hôn trầm bằng cách lấy dùi đâm vào da thịt. Nhưng cũng có vị chỉ cần ngủ một chút cho khỏe là trở nên tỉnh táo để ngồi thiền tiếp tục.
Dù thế nào, theo tiêu chuẩn của Phật đã vạch ra, bắt buộc một hành giả tu tập thiền định phải có khả năng an trú trong Chánh niệm để phá tan được cảm giác buồn ngủ. Rồi đến khi ngủ lại an trú trong Chánh niệm để dỗ giấc ngủ.
Nhiều vị có thể an trú thiền định và ngồi suốt cả ngày đêm như vậy. Chúng ta không được gượng ép bắt chước vì sẽ làm hư hao cơ thể. Phải để cho Chánh niệm phá trừ xong triền cái Hôn trầm và tự nhiên có thể tỉnh táo thức lâu.
Trạo cử
Trạo cử là tình trạng cơ thể không yên, không bất động. Nguyên nhân là do những xung động trong não bộ cứ thường xuyên truyền những tín hiệu xuống toàn thân, tứ chi khiến cho cơ thể cứ bị nhúc nhích khe khẽ. Cái nhúc nhích đó có khi không thể thấy bằng mắt thường. Bên ngoài mọi người nhìn vào vẫn tưởng là ta đang ngồi yên bất động, nhưng thật ra là ta vẫn đang lay động rất ít.
Đến khi nào triền cái Trạo cử được phá trừ, những xung động thần kinh não yên lắng, bỗng nhiên ta cảm giác toàn thân cứng ngắt bất động không thể nhúc nhích được nữa. Cảm giác này luôn đi đôi với trạng thái Chánh niệm rất sâu, tâm khá thanh tịnh và tỉnh táo.
Tuyệt đối không được làm cho thân bất động bằng cách gồng toàn thân vì sẽ làm căng thẳng thần kinh não và biến thành bệnh lý.
Cảm giác như không có thân, mất thân vẫn là chưa phá được Trạo cử vì khi hết trạo cử, thân lại có cảm giác cứng. Sau khi nhập sơ thiền thì thân mới bắt đầu xuất hiện cảm giác mềm lỏng mà vẫn bất động.
Hoang mang
Từ gốc gọi là Nghi. Khi chưa phá được triền cái Nghi, hành giả dù có tinh tấn vẫn có chút hoang mang không biết mình đi có đúng đường chưa, không biết tu như vậy có kết quả không, ngồi thiền như vậy có lợi ích gì chăng. Đến khi chứng được Chánh niệm tỉnh giác, rồi tiến lên phá được triền cái Nghi, ngay lập tức cái cảm giác hoang mang tan biến, hành giả có một sứ tự tin mãnh liệt về Phật pháp, về đường lối tu tập nào giờ.
Từ sự tự tin nơi mình, hành giả liền có niềm tin lớn lao vào đức Phật, Chánh Pháp của Phật và những vị Thánh tăng chứng ngộ.
Nếu trước đó lý tưởng giác ngộ giải thoát chưa phải là tuyệt đối thì sau khi phá triền cái Nghi, hành giả sẽ đạt được lý tưởng gần như tuyệt đối.
Trong nhiều bài kinh, đức Phật vẫn ca ngợi sự phá trừ được Năm triền cái như là sự trút được gánh năng như thoát được nợ nần, như là ra khỏi rừng hoang … nghĩa là làm tâm hồn ta rất nhẹ nhàng thanh thản.
Sau khi phá trừ được Năm triền cái, hành giả chuẩn bị nhập được Sơ thiền. Do vậy ta biết rằng giá trị của bốn mức thiền là rất vĩ đại. Nhiều lý luận đã xem thường bốn mức thiền là do không hiểu hết vấn đề. Ai xem thường bốn mức thiền sẽ tổn phước rất nặng.
Tuy nhiên, ta đừng nghĩ rằng một khi đã phá trừ được Năm triền cái là đã bước vào địa vị bất thoái chuyển. Ta vẫn còn có thể bị tà kiến chưa hết nên có thể phạm sai lầm để gây tổn phước và bị thoái chuyển ở kiếp này hay kiếp sau.
Câu hỏi: Hãy đánh giá Năm Triền cái của chính mình.
Nghe bài giảng: Thiền học - Năm triền cái

Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013

Thiền học 11: Chánh niệm


Thiền học 11
Chánh niệm
1.       Định nghĩa
Chánh niệm là chi phần thứ bảy trong Bát chánh đạo, có hai nghĩa.
Thứ nhất là sự thực hành một pháp môn tu tập thiền định so với các Chánh đạo trước chỉ là tu tập các công hạnh của thân khẩu ý. Khi tu đến Chánh Niệm, đệ tử Phật phải bắt tay vào thực hành một phương pháp thiền định rõ rệt và quyết tâm. Nếu chưa biết tọa thiền thì ta chưa tu tập  được bước thứ bảy của Bát chánh đạo. Vì là bước thứ bảy nên những giai đoạn trước đều là nền tảng quan trọng. Tuy nhiên, nếu chỉ tu sáu giai đoạn trước mà không tiến thêm tu tập Chánh Niệm thì ta chưa thực hiện được đầy đủ sự tu hành trong đạo Phật.
Còn phương pháp dụng công nhiếp tâm cho thiền định thì Phật cũng đã linh động dạy rất nhiều cách thức, và sau này các đại sư cũng chế tác thêm. Bây giờ thì chúng ta phải khảo sát mọi vấn đề liên quan đến Thiền để biết lựa chọn pháp môn hợp lý nhất cho bản thân mình và cho nhiều người khác. Những kiến thức về khoa học, y học, khí công, Âm dương, cũng giúp chúng ta trong việc phân tích các pháp môn tu tập.
Thứ hai, Chánh Niệm là trạng thái của Tâm đã có kết quả tâm linh, mà biểu hiện rõ nhất là không bao giờ quên mất sự dụng công tu tập. Vọng tưởng có thể còn, nhưng không đủ sức làm tâm xao lãng. Khi đã đạt được Chánh Niệm, tâm hành giả thường xuyên rỗng rang sáng suốt, và ít vọng tưởng. Vọng tưởng manh nha muốn khởi thì đã bị phát hiện và tự diệt trừ. Chúng ta có thể nói Chánh Niệm chính là tâm không xao lãng khi an trú trong pháp môn tu tập.
2.       Những nguyên nhân làm tâm sao lãng
Tâm bị xao lãng có nghĩa là tâm không thể giữ gìn sự dụng công liên tục thường xuyên. Khi vọng tưởng khởi lên là lập tức một màn đen cũng nhanh chóng che tâm, và cũng ngay lúc đó, tâm bị trôi theo vọng tưởng để lang thang vào các vấn đề vẩn vơ. Do đó, pháp môn mà hành giả đang áp dụng cũng biến mất.
Ví dụ, đang theo dõi hơi thở, vọng tưởng khởi lên, hành giả quên hơi thở, hoặc còn theo dõi nhưng không chăm chú nữa vì bận chú ý vào những vấn đề của vọng tưởng.
Vọng tưởng làm tâm bị xao lãng là nỗi đau khổ ghê gớm của người tu thiền. Nhiều người trở nên chán nản rồi bỏ cuộc, và một khi đã bỏ thiền tập thì đường giải thoát đã đóng lại. Nhiều người cố gắng suốt cả đời nhưng cũng loay hoay khi được khi mất chứ không thể tránh được sự xao lãng dứt khoát mãi mãi. Tâm không xao lãng, có chánh niệm, khiến ta phấn khởi tin tưởng đi tới. Còn tâm xao lãng dễ làm ta nản chí. Tuy nhiên, nếu không quyết chí tu tập thiền định thì sự giải thoát là vô vọng. Ta phải xác định lập trường là du khó khăn cách mấy vẫn quyết lòng theo đuổi.
Khi Chánh niệm đã xuất hiện thì có thể vọng tưởng còn khởi nhưng tâm vẫn không bị xao lãng, vẫn giữ được pháp môn thực hành, vẫn không bị dẫn theo các vấn  đề của vọng tưởng, và đặc biệt là nhanh chóng diệt trừ vọng tưởng.
Khi chánh niệm chưa xuất hiện, tâm dường như bị u tối, vọng tưởng có sức mạnh lôi kéo sự chú ý của tâm đi theo những vấn đề của nó. Ở đây xuất hiện một khái niệm quan trọng là sự chú ý. Nếu sự chú ý  luôn luôn ở lại với pháp môn. Có nghĩa là chánh niệm có mặt. Nếu sự chú ý rời khỏi pháp môn để hướng theo vọng tưởng thì Chánh niệm biến mất, là bị thất niệm, là bị xao lãng.
Khi dụng công, ta luôn cố gắng chú ý và Hơi thở, vào pháp môn đã chọn, nhưng một động cơ bí mật có sức mạnh kéo tâm ta trôi theo vọng tưởng. Động cơ bí mật đó chính là nghiệp. Nghiệp là một yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc nhiếp tâm của Thiền định. Chính Nghiệp đã điều khiển  hầu hết sự phát triển của Thiền định. Ta nhiếp tâm dễ hay khó đều do Nghiệp quyết định. Thậm chí ta có duyên gặp đường lối chân chính hay sai lầm cũng do Nghiệp. Tâm ta hay bị xao lãng hay ít bị xao lãng cũng là do Nghiệp. Thậm chí sự tinh tấn của ta cũng có bàn tay của Nghiệp.
Thiện Nghiệp là động cơ chủ yếu dẫn ta vào định. Ác Nghiệp là rào cản chính ngăn ta nhiếp tâm khiến ta xao lãng. Vì vậy, người tu phải huân tập thiện nghiệp suốt cả đời. Những thiện nghiệp chính có thể được liệt kê như sau:
-          Tâm lý rất đạo đức. Tu dưỡng đạo đức cho nội tâm bao gồm nhiều đề tài (xin xem Tâm Lý Đạo Đức)
-          Giúp mọi người an vui hạnh phúc. Điều này khiến ta được kết quả dễ có an vui trong tâm
-          Tôn kính Phật và chư Thánh. Nhân quả quy định rằng ta kính trọng những vị thánh thì ta sẽ dần dần đạt được những tính chất của vị thánh đó.
-          Giúp mọi người hiểu biết đạo lý. Điều này khiến tâm ta an trụ trong chánh pháp mãi mãi.
-          Giúp mọi người cùng tu tập thiền định. Muốn người khác được điều gì, ta sẽ được điều đó.
Khi ác nghiệp quá khứ đã được vơi nhẹ, khi thiện nghiệp hiện tại đã huân tập được nhiều, tự nhiên tâm ta trở nên trầm tĩnh, sáng suốt, dễ chú tâm theo hơi thở, ít bị vọng tưởng làm xao lãng. Rồi chỉ cần khéo léo tinh tấn nhẹ nhàng theo dõi hơi thở ra vào, tâm ta có thể nhanh chóng xuất hiện trạng thái  Chánh niệm tỉnh giác.
Người không biết gây tạo công đức, cứ loay hoay lo nhiếp tâm, có khi cả đời chưa đạt được trạng thái Chánh niệm tỉnh giác.
Khi còn là học Tăng, học Ni, chúng ta phải vất vả cùng một lúc vừa học giáo lý, vừa tu tập thiền định, vừa công quả tạo phước. Đến khi nào công đức sung mãn, ta mới có thể nhập thất chuyên chú thiền định để tiến sâu vào các mức định. Nhưng cũng đã có nhiều người chưa cần nhập thất mà tâm đã khai mở chỉ vì phước đã đủ. Thời gian dành cho việc gây tạo công đức càng nhiều thì sau này thời gian dành cho việc dụng công thiền định càng đỡ phải tốn kém hơn.
Một yếu tố làm tâm dễ xao lãng nữa là sự tham đắm thế gian. Khi ta ham muốn nhiều điều trong cuộc đời phiền động này thì đương nhiên tâm ta phải vận động suy nghĩ tính toán. Vì vậy, điều kiện để bớt xao lãng là phải không tham đắm thế gian. Tuy nhiên, ở đây tồn tại một nghịch lý rất khó vượt qua, đó là tâm trạng không tham đắm thế gian cũng rất gần với tâm trạng vô trách nhiệm với cuộc đời, và điều này khiến người tu trở nên thụ động, tiêu cực, kém phước. Muốn có phước, ta phải tận tụy với con người, với cuộc đời, nhưng cũng dễ bị tham đắm cuộc đời.
Do đó ta phải khéo giữ cho mình cái Trung đạo là vừa tận tụy với cuộc đời, vừa thản nhiên không tham đắm cuộc đời.
Nhiều bài kinh Phật cũng hay khuyến cáo người tu về tính tạm bợ hư ảo của cuộc đời để chúng ta đừng tham đắm thế gian, nhưng rất nhiều bài kinh khác cũng nhắc nhở chúng ta về tấm lòng từ bi thương yêu tất cả chúng sinh. Đó là Trung đạo chân chính nhất. Lệch qua một bên, chúng ta vĩnh viễn không thể giải thoát.
Một yếu tố tiếp theo làm tâm dễ xao lãng là bệnh lý ở thần kinh não. Khi cuống não bị suy yếu, võ não lập tức trở nên hưng phấn sôi động và tư tưởng tự động tuôn trào không cách gì kiểm soát được. Bị bệnh này, hành giả không thể chuyên chú được. Bị bệnh này, hành giả không thể chuyên chú tập trung vào pháp môn tu tập được vì vọng tưởng rất mạnh, cuốn sự chú ý trôi theo hết vấn đề này sang vấn đề khác. Người ta cũng gọi đây là bệnh trầm cảm, suy nhược thần kinh … muốn chữa bệnh này, hành giả phải vừa uống thuốc bổ chân âm, vừa luyện tập khí công tích lũy nội lực ở đan điền, vừa lạy Phật sám hối, vừa gây tạo công đức rất nhiều.
Ngược lại, ai có cuốn não mạnh thì vỏ não rất yên lắng, dễ thành tựu Chánh niệm tỉnh giác.
Phương pháp biết rõ toàn thân (cảm giác toàn thân khi thở vào thở ra, Nikaya) của Phật dạy cũng giúp củng cố Chân âm rất tốt. Phương pháp an trú tâm tại một điểm ở Đan điền cũng giúp phát triển Chân âm; tuy nhiên phải biết kết hợp giữa thấy thân là vô thường hư ảo với phép an trú tại một điểm ở Đan điền.
Những tư tưởng  thấp hèn, ích kỷ, kiêu mạn, hơn thua, oán hận, dục vọng… làm cho thùy trán bị mờ tối và tâm dễ bị xao lãng. Ngược lại, khi Chánh niệm tỉnh giác xuất hiện, thùy trán trở nên rỗng sáng, máu lưu thông đầy đủ vào các mạch máu não, cảm giác sảng khoái xuất hiện. Tuy nhiên hành giả không được an trú tâm nơi trán khiến cho hao mất Âm lực và não bị căng thẳng. Một vài trường phái chủ trương an trú tâm trước trán hoặc đỉnh đầu là do không quan tâm đến cấu tạo khí lực của cơ thể.
Những tư tưởng thánh thiện như vị tha, khiêm hạ, nhường nhịn, độ lượng, trì giới… giúp cho thùy trán rỗng sáng hơn. Vì vậy, người tu thiền phải biết thực hành Chánh Tư duy là huân tập những tư tưởng tốt lành, phải đối diện với nghịch cảnh để thử thách đạo đức, phải nhận lấy trách nhiệm với chúng sinh để phát triển từ bi. Phải nghiêm khắc sám hối mỗi khi tâm còn xuất hiện những tư tưởng bất thiện.
3.       Giá trị của chánh niệm
Khi tâm hành giả trở nên sáng tỏ, vọng tưởng bớt khởi, hoặc vọng tưởng manh nha là bị phát hiện từ trong sâu kín liền, không còn bị xao lãng ra khỏi pháp môn tu tập nữa, lúc đó, hành giả thật sự thành tựu Chánh niệm tỉnh giác. Đó là một trạng thái mới của tâm, khác nhiều so với nội tâm loạn động trước kia. Chính nhờ kết quả ban đầu này mà chúng ta cảm thấy phấn khởi tin tưởng để tiến bước trên đường tu tập. Tuy nhiên nếu không được răn nhắc, chúng ta có thể xuất hiện một số suy nghĩ sai lầm đưa đến đổ vỡ về sau.
Những suy nghĩ sai lầm có thể là vội vã tự cho mình đã chứng ngộ, đã giác ngộ, đã ngộ đạo, kiến tánh. Có người cho rằng trạng thái Chánh niệm đó chính là Phật tánh. Chân tâm siêu việt phi thường. Vì vội vã đề cao mình quá đáng nên chúng ta có thể bị tổn phước nặng nề để rồi bị quả báo thê thảm về sau.
Một suy nghĩ sai lầm khác là không biết quý trọng kết quả Chánh niệm đã đạt được, không biết sử dụng Chánh niệm cho sự tu hành sắp tới. Chánh niệm có công năng giúp ta dễ biết rõ lỗi lầm và vọng tưởng trong tâm. Ta phải tận dụng tính chất đặc biệt này của Chánh niệm để kiểm soát lỗi lầm và vọng tưởng. Lúc nào ta cũng phải giữ gìn sự tỉnh giác rỗng rang đó để nhanh chóng phát hiện vô số lỗi lầm và vọng tưởng thầm kín vẫn đang tiếp tục dấy khởi.
Khi đang tỉnh giác, ta phải tự nhắc thầm rằng “nội tâm vẫn còn nhiều phiền động” mặc dù có thể ta không thấy được hết những phiền động đó ra sao. Lúc ngồi thiền theo dõi hơi thở, ta tác ý nhẹ nhàng, “thở vào biết tâm còn phiền động, thở ra biết tâm còn phiền động”. Nhiều người thấy tâm bớt vọng tưởng đã tưởng lầm rằng tâm đã thanh tịnh. Thật ra vọng tưởng bí mật hơn ta tưởng. Một chút yên lắng bên ngoài chưa có đáng gì so với vô số vọng tưởng còn nguyên sức mạnh tiềm ẩn bên trong sâu kín. Chỉ cần ta thiếu công đức, thiếu cảm giác là chúng sẽ trỗi dậy quật ngã ta, còn tệ hơn hồi chưa biết tu.
Vì chánh niệm xuất hiện song song với sự khai mở của thùy trán  nên hành giả luôn có cảm giác là có một cái gì trước mắt hiện tiền sáng tỏ. Phật cũng có dùng từ “an trú chánh niệm trước mặt”; các thiền sư cũng hay nói “sờ sờ trước mặt” cũng chung một ý này. Tuy nhiên nếu ta chạy theo cái sáng sáng ở trước mắt thì lại sẽ hư mất công phu.
Điểm quan trọng ở đây là, mặc dù Chánh niệm tạo ra cảm giác sáng rõ trước mắt, nhưng chúng ta phải để ý khắc toàn thân, để ý ở một điểm Đan điền, để ý ở vùng não phía sau để kiểm soát ý niệm vi tế. Chánh niệm sẽ giúp ta không quên pháp môn đang được sử dụng, giúp ta nhanh chóng phát hiện lỗi lầm và vọng tưởng mới manh nha.
Câu hỏi: Hãy phân tích sự xao lãng của mình để tìm xem nguyên nhân từ đâu
(Nguồn : Giáo trình Thiền học, Tỳ Kheo Thích Chân Quang, Nhà xuất bản tôn giáo)
Nghe bài giảng: Thiền học - Chánh niệm


Thứ Hai, 29 tháng 7, 2013

Thiền học 10: Hơi thở

Thiền học 10
Hơi thở
  1. Ý nghĩa của hơi thở
Hơi thở là nhu cầu tối thiết yếu của sự sống. Nếu nhịn ăn hơn mười ngày, cơ thể mới nguy hiểm; nếu nhịn uống hơn ba ngày, cơ thể sẽ nguy hiểm; nhưng chỉ cần mất hơi thở trong hai hoặc ba phút là ta chết liền. Vì thế, lúc nào ta cũng phải đang thở ra thở vào. Oxygene được phổi hấp thu, và được máu đưa đi khắp cơ thể, nhất là đưa là đưa lên não. Nếu thiếu Oxy não, não sẽ hư hại nghiêm trọng rất khó phục hồi.
Hơi thở vừa có thể được điều khiển bởi thần kinh ý thức (động vật) vừa có thể được điều khiển bởi thần kinh vô thức (thực vật). Có nghĩa là dù ta không để ý đến, cử động thở vẫn tồn tại do thần kinh Vô thức điều khiển; hoặc dù ta để ý đến, thì lập tức cử động thở chuyển sang chịu sự điều khiển của thần kinh Ý thức. Ta sẽ thấy rằng, không để ý thì thôi, khi vừa để ý đến thì lập tức hơi thở trở nên mạnh hơn, lúng túng hơn, đòi hỏi phải điều chỉnh cho thích hợp. Chỉ tiếc rằng ta chủ động điều khiển chưa được bao lâu thì lại quên mất để chạy theo vọng tưởng.
Khi ta nhiếp tâm bằng cách chú ý đến một đối tượng nào đó, tâm ta cũng sẽ bị chấp vào ý niệm đó. Ví dụ, ta nhìn một điểm sáng như đầu cây nhang để chú tâm, ta sẽ bị ý niệm về cây nhang chiếm dần tâm hồn; ta nghĩ về một câu đạo lý: “Ai là người đầu tiên đã xuất hiện trên Trái Đất?”, cũng làm cả một bộ não quay cuồng khuấy động. Nhưng khi ta chú ý vào hơi thở ra, hơi thở vào thì các ý niệm lại yên lắng dần. Đây là một tính chất rất đặc biệt mà tạo hóa ban cho con người. Theo ngôn ngữ của Y khoa thì khi thần kinh thở hưng phấn thì những vùng thần kinh khác tự động đi vào ức chế.
Điều đặc biệt kế tiếp nữa là khi ta nhẹ nhàng biết hơn thở ra hơi thở vào một cách rõ ràng, tự nhiên sức tỉnh giác  tăng dần. Sức tỉnh giác hiện diện thường xuyên lại tạo nên nhân điện (điện sinh học) dần dần cho cơ thể. Nhân điện làm cải thiện sức đề kháng của cơ thể (immune) tốt hơn. Nhưng nhà chuyên luyện khí công còn sử dụng hơi thở để tạo nên một loại sức mạnh còn gọi là nội công. Tuy nhiên, thời đại kỹ thuật chiếm ưu thế này cũng góp phần làm mai một dần sự truyền thừa về những bí quyết nội công như thế.
Bây giờ tập theo dõi hơi thở có thể không làm ta mạnh phi thường như người xưa, nhưng chắc chắn giúp ta khỏe hơn nếu thực tập.
Khi ta chủ động kiểm soát hơi thở, dĩ nhiên ta không cần phải thở mạnh, nhưng sự trao đổi dưỡng khí O2 và thán khí CO2 được luân lưu tốt hơn. Phổi cũng được rèn luyện dẻo dai hơn tránh nguy cơ những bệnh như lao, viêm…
Theo Y học và Võ học Đông phương, bên cạnh không khí mà ta hít thở này, còn một loại khí khác có khả năng thẩm thấu vào các bắp thịt, gân, xương, tạng phủ, nhất là lưu chuyển theo các hệ thống huyệt đạo phức tạp vô hình của cơ thể. Khí này mới chính là nguồn lực phi thường của cơ thể. Họ tưởng tượng dẫn khí lưu chuyển theo những kinh huyệt quan trọng để kích thích tiềm lực. Huyệt đan điền dưới rốn 5 cm là một huyệt chủ yếu nhất cho sự khai mở nội lực như thế. Tập lâu ngày, cái cảm giác có một luồng hơi hiện diện ở bụng là rất thật.
Sự buông lỏng toàn thân theo Thiền đạo Phật cũng giúp cho khí dễ dàng thẩm thấu khắp cơ thể. Đây là điểm khác nhau giữa ngoại công nội công, vì ngoại công buộc phải luyện tập gồng cứng cơ bắp. Bài Thái cực quyền của phái Võ Đang là một tinh hoa của Võ học Đông phương vì phép đánh mềm mại buông lỏng chậm rãi kỳ lạ. Tuy nhiên quần chúng chỉ được học cái vỏ, vòn những bí quyết cao siêu hơn có thể đã bị giữ lại.
  1. Hơi thở trong Thiền đạo Phật
Trong bài kinh Niệm hơi thở, Trung bộ kinh, Nikaya, đức Phật có dạy về 17 giai đoạn hơi thở.
Song song với hơi thở ra hơi thở vào, hành giả còn phải có những tác ý cần thiết, phức tạp dần dần. Trong bài này, chúng ta chưa cần nêu ra đầy đủ 17 hơi thở đó, chỉ trình bày những căn bản quan trọng.
Trước khi đi vào tu tập hơi thở, chúng ta buộc phải thành thạo công phu Điều thân, không thể coi thường. Thân thể phải được giữ bất động, mềm mại, buông lỏng, đúng tư thế. Toàn thân cũng phải được biết rõ mà trong kinh gọi là cảm giác toàn thân. Nếu điều thân chưa vững mà vội vàng bước sang tu tập hơi thở thì hại nhiều hơn lợi.
Trước hết, hơi thở vào, ta biết rõ hơi thở vào; hơi thở ra, ta biết rõ hơi thở ra. Có một điều đơn giản là khi theo dõi hơi thở, ta biết là đang có thở, nhưng lại không để ý rõ là đang thở ra hay đang thở vào. Đây cũng là do thiếu chăm chú, thiếu tỉnh giác. Vì vậy, để rèn luyện sự chăm chú và tỉnh giác, chúng ta phải biết rõ là hơi thở đang ra hay đang vào. Ta sẽ thấy rõ hơi thở vào, rồi dừng lại, rồi đi ra, rồi dừng lại, rồi đi vào… nghĩa là ta theo dõi sự chuyển động của hơi thở một cách sát sao từng chút một. Nếu có lúc nào ta lơ mơ không rõ hơi thở đang ra hay đang vào, hay đang dừng lại để chuẩn bị đổi chiều, tức là ta đang mất tỉnh giác.
Ta cũng có thể phạm một sai lầm là tưởng tượng di chuyển theo hơi thở bắt đầu từ mũi vào dần đến ngực, ức, bụng với mục đích biết hơi thở đi tới đâu, rồi lại theo hơi thở đi ra cho đến mũi. Khí công thì có thể có phương pháp này, nhưng Thiền của đạo Phật thì không. Di chuyển tâm theo hơi thở như vậy làm cho tâm bị động, và não sẽ căng thẳng.
Tốt nhất ta nên đứng yên một chỗ mà theo dõi sự ra vào của tâm.
Có một chỗ rất cụ thể mà bắt buộc hơi thở phải luôn luôn đi ngang qua khi vào hay ra, đó là ống mũi. Nếu ta để ý tại một chỗ trong ống mũi để kiểm soát hơi thở ra hay vào thì tâm rất nhanh chóng được nhiếp chặt, vọng tưởng dễ lắng dịu. Tuy nhiên, khi để ý tại ống mũi như vậy, ta đã chú ý vào phía trên cơ thể, tức là phần rất dương. Lâu ngày âm lực làm gốc cho cơ thể bị hao tổn dần và nhiều bệnh tật xuất hiện, kể cả bệnh về thần kinh não. Chỉ có người nào đã có âm lực dồi dào thì mới nhiếp tâm bằng cách trụ tâm ở ống mũi và đắc định luôn.
Một vài trường phái đề nghị trụ tâm ở ức ngay giữa ngực để theo dõi hơi thở ra vào. Thật ra ức cũng thuộc về phần Dương, nên trụ tâm lâu ngày ở đó cũng không tốt.
Một vài trường phái đề nghị trụ tâm ở bụng dưới để theo dõi sự phồng xẹp của bụng và biết là hơi thở ra hay vào. Vô tình phương pháp này phù hợp với quy luật âm dương khiến cho hành giả phát triển được tiềm lực khi thực hành như vậy.
Tuy nhiên, sự phồng xẹp của bụng chỉ có ở giai đoạn đầu. Lâu ngày khi tâm đã yên lắng thì hơi thở không còn mạnh đến nỗi làm bụng phồng xẹp rõ rệt nữa. Nếu duy trì sự phồng xẹp của bụng một cách cố ý thì làm trở ngại việc nhiếp tâm.
Một đề xuất hợp lý kết hợp những ưu điểm trên là trụ tâm nhẹ nhành tại một điểm Đan điền để theo dõi hơi thở ra vào. Trú tâm như vậy không lệ thuộc vào sự phồng xẹp của bụng. Tuy nhiên, một khó khăn sẽ xảy ra với người chưa thể vừa biết rõ toàn thân nhuần nhuyễn lại vừa để ý một điểm nhỏ ở Đan điền. hơn nữa, ban đầu hơi thở dường như chưa thông đến bụng nên để tâm dưới bụng giống như chẳng dính gì đến hơi thở. Nhưng nếu chịu khó một thời gian thì những khó khăn trên sẽ hết, hành giả có thể vừa biết toàn thân, vừa để ý một điểm Đan điền, vừa theo dõi hơi thở ra vào rõ ràng không lầm lẫn.
Khi an trú tâm ở Đan điền để theo dõi thở ra vào, thỉnh thoảng vọng tưởng vẫn khởi lên. Nếu vọng tưởng còn quá mạnh, tâm ta sẽ bị thất niệm quên mất việc theo dõi hơi thở. Nếu vọng tưởng không mạnh, ta dễ nhớ được hơi thở hơn. Nguyên nhân của vọng tưởng mạnh hay yếu là một bị mật của Nhân quả. Đây chính là lúc mà vai trò của phước được đề cao. Người đủ phước sẽ dễ nhiếp tâm hơn người ít phước. Chính vì vậy mà Phật đã sắp đặt chánh nghiệp ( làm phước) trước chánh niệm chánh định (Bát chánh đạo)
Nếu cảm thấy việc nhiếp tâm không dễ dàng, chúng ta phải siêng năng gây tạo công đức suốt cuộc đời còn lại, đừng bướng bỉnh bỏ hết để chăm lo nhiếp tâm hoài sẽ mất cả chì lẫn chài, nghĩa là vừa không được kết quả thiền định, vừa không có phước. Chừng nào trong khi bận rộn làm các việc công đức mà vẫn nhiếp tâm dễ dàng mỗi khi ngồi thiền tức là công đức bắt đầu có.
Kế đến, hơi thở vào dài, ta biết hơi thở dài, hơi thở ngắn, ta biết hơi thở ngắn.
Hầu hết người tu tập pháp môn hơi thở hay bị một sai lầm nghiêm trọng là ráng thở dài hơn bình thường, nghĩa là luôn can thiệp vào hơi thở. Ở đây Phật dạy ta phải biết rõ, nhưng không được can thiệp vào hơi thở. Đây là một trung đạo khéo léo.
Hành giả tỉnh táo thụ động quan sát hơi thở ra vào rõ ràng nhưng không can thiệp, không cố ý điều khiển hơi thở. Chắc chắn hơi thở sẽ không đều đặn suốt thời gian ngồi thiền. Nhưng vọng động bí mật của nội tâm sâu kín sẽ chi phối vào hơi thở khiến cho hơi thở khi mạnh khi yếu, khi dài khi ngắn khác nhau.
Khi nội tâm yên tĩnh, hơi thở êm dịu và dài hơn; khi nội tâm có xung động, dù âm thầm, hơi thở sẽ mạnh và ngắn hơn.
Ta chỉ việc theo dõi và ghi nhận sự biến chuyển như thế chứ không can thiệp điều chỉnh cho hơi thở trở nên đều đặn như ý mình muốn. Đây là một đặc tính khác lạ của Thiền đạo Phật so với các loại Thiền hay Khí công khác. Khi thực hành đúng theo lời Phật dạy như thế, ta sẽ thấy tâm trầm tĩnh từ trong sâu thẳm. Còn việc can thiệp điều khiển hơi thở theo ý mình có thể khiến tâm có vẻ như nhanh chóng tắt vọng tưởng, nhưng trong sâu thẳm lại bị khuấy động
Những hơi thở căn bản để tu tập thiền định được kể thêm như sau:
Biết rõ toàn thân khi thở vào;  biết rõ toàn thân khi thở ra. Hơi thở này nhắc chúng ta không được quên biết rõ khắp toàn thân. Và suốt đời chúng ta không bao giờ quên được công phu biết rõ toàn thân này. Khi chứng được từng mức thiền, chúng ta cũng chỉ dựa vào trạng thái của thân để đánh giá chứ không đi đâu xa.
Biết thân là vô thường khi thở vào, biết thân là vô thường khi thở ra. Hơi thở này giúp chúng ta biết hết chấp thân dần dần. Chấp thân là cái chấp căn bản và rất là khủng khiếp. Chấp ngã sâu kín cũng được hỗ trợ bởi chấp thân. Phá được chấp thân làm tâm ta nhẹ nhàng bớt phiền não rất nhiều. Tuy nhiên để hiểu thế nào là thân vô thường, trước đó chúng ta phải phân tích theo như Phật dạy trong bài kinh Niệm thân. Chúng ta phải thấy sự biến đổi của thân từ khi trẻ đến già, từ già đến chết, từ chết đến tan hoại hoàn toàn, kể cả xương cũng tan thành tro bụi bay theo gió.
Nguyện lòng thương yêu chúng sinh khi thở vào, nguyện lòng thương yêu chúng sinh khi thở ra.  Hơi thở này có công năng diệt trừ vọng tưởng rất tốt nhưng khi vọng tưởng quá mạnh hay làm ta Thất niệm. Chính cái phước của tâm Từ bi giúp cho ta tỉnh giác hơn và thoát ra vọng tưởng.
Biết tâm vẫn còn phiền động khi thở vào; biết tâm vẫn còn phiền động khi thở ra. Hơi thở này được áp dụng khi tâm ta đã yên lắng. Thật ra khi tâm yên lắng thì chẳng cần mất công khởi ý nhắc nhở phiền phức. Chỉ vì khi tâm yên lặng, ta hãy âm thầm tự khen mình để làm thành sự kiêu mạn tự hào bí mật vô cùng nguy hiểm nên Hơi thở này giúp ta ngăn chặn ý niệm kiêu mạn tự hào. Dù cho tâm có tạm thời yên lặng, những phiền não, xao động, chấp trước… vẫn chưa nhúc nhích chút nào. Vọng tưởng vẫn có thể dấy động trở lại, phiền não vẫn có thể bất ngờ xuất hiện trở lại. Vì vậy sự cảnh giác, không chủ quan là cần thiết và là công đức.
Mới ban đầu ta chỉ vừa thở vừa biết thân. Lâu ngày tự nhiên biết rõ thêm nội tâm dù không cố ý. Lúc đó, ta vừa biết hơi thở, vừa biết toàn thân, vừa biết nội tâm. Cùng một lúc biết cả ba điều mà vẫn nhẹ nhàng thoải mái.
Trích từ tài liệu : Giáo trình thiền học, Tỳ Kheo Thích Chân Quang, Nhà xuất bản Tôn Giáo
Nghe thêm bài giảng: Hơi thở


Các bài khác
Khái nệm về thiền