Thiền học 17
Những pháp môn ngày nay
Chúng ta tạm thời chia đạo Phật theo những giai đoạn sau:
- Thời kỳ Phật giáo Nguyên Thủy. Đó là thời kỳ đức Phật còn
tại thế và kéo dài thêm 100 năm.
- Thời kỳ Phật giáo phân phái. Đó là thời kỳ sau 100 năm, đạo
Phật chia thành 20 bộ phái, theo hai khuynh hướng bảo thủ của Thượng tọa bộ
và cải
cách của Đại chúng bộ. Thời kỳ này kéo dài từ 100 năm sau Phật đến khoảng 600 năm sau Phật.
-Thời kỳ Phật giáo Đại thừa. Nhiều khi để tránh hơn thua,
người ta cũng gọi là Phật giáo Phát triển. Lúc này những bộ kinh và luận của Đại
thừa thi nhau xuất hiện. Thật ra Phật giáo Đại thừa đã có manh nha sau Phật 200
năm, nhưng phải đợi khi Long Thọ hiện diện thì mới trở thành một phong trào rầm
rộ.
- Thời kỳ Phật giáo biển đối. Đó là khi Phật giáo được truyền
sang các nước phía Đông như Tây Tạng, Trung Hoa. Tại đây, đạo Phật pha trộn với
văn hóa, tín ngưỡng bản địa và thay đổi rất nhiều. Ta có Mật tông, Thiền tông
hay Tịnh độ tông đều thuộc giai đoạn này. Thời kỳ này không đồng đều, tùy theo
thời gian đạo PHẬT du nhập vào mỗi nước,
nhưng cũng khoảng gần 100 năm sau Phật. Ngay cả Phật giáo Theravada của Nam tông từng được xem là nguyên thủy cũng
không còn giữ được thuần túy, cũng đã thay đổi rất xa so với Phật giáo Nguyên
thủy. Và dường như khuynh hướng biến đổi này kéo dài đến ngày nay.
-Thời kỳ Phật giáo hiện đại. Đó là thời đại hôm nay khi các
ngành kỹ thuật khoa học tiến bộ giúp cho việc nghiên cứu đạo Phật được thuận lợi.
Ngày nay người ta ít bị ràng buộc bởi một tông phái duy nhất mà luôn tìm hiểu đạo
Phật từ cội nguồn, tìm hiểu các tông phái khắp nơi, giao lưu trao đổi kinh nghiệm
tu hành. Chính thời kỳ này lại mới là lúc tinh thần của Phật giáo Nguyên thủy
được tôn vinh vì giúp cho đạo Phật tìm lại điểm chung và bớt bị phân hóa.
Hôm nay chúng ta
chỉ đề cập đến bốn đường lối phổ biến nhất bây giờ đó là Tịnh độ tông, Thiền
tông, Mật tông và Theravada Nam tông. Một bài học ngắn như vầy thì những điều
được nêu ra chỉ là sơ lược.
Học bày này, chúng ta cũng vượt ra khỏi tinh thần thành kiến
tông phái để tìm sự thật. Một trở ngại lớn cho người học Phật là tinh thần tông
phái quá nặng khiến cho ta không còn khách quan nữa. Bây giờ, dù ta xuất thân từ
tông phái nào, ta cũng tạm quên đi để chỉ còn là đệ tử Phật chung duy nhất mà
thôi. Có thể thầy tổ ta cực lực bênh vực tông phái pháp môn của mình, nhưng
trên tinh thần khách quan nghiên cứu, ta phải thoát ra khỏi ảnh hưởng đó để
nhìn rộng hơn. Điều bình thường là ai cũng cho tông phái mình là chân lý đúng
nhất. Đó chỉ là quan niệm chủ quan không phù hợp với tinh thần nghiên cứu khoa
học, cần phải được tránh để ta đi tìm một đạo Phật chung cho tất cả.
Chúng ta sẽ dựa trên vài đạo lý căn bản nhất của Phật để so sánh từng pháp môn và biết rõ sự
sai biệt để bổ sung hay phát huy. Cuối cùng, ước mơ của chúng ta vẫn là xây dựng
lại một đạo Phật hòa hợp đoàn kết và không còn bị phân hóa trầm trọng như hiện
nay.
1. Tịnh độ tông
Tông tịnh độ xuất hiện theo tinh
thần của kinh Quán Vô Lượng Thọ và kinh A di đà. Những bậc tông sư như Huệ Viễn,
Đàm Loan, Đạo Xước,… hết mực xiển dương ca ngợi cái mong ước sinh về cõi Phật Adiđà sau khi chết, bằng cách lúc sống cứ
chuyên tâm niệm danh hiệu Phật Adiđà.
Cõi nước của Phật Adiđà được gọi
là cõi Cực Lạc, hay còn gọi là Tịnh độ. Đó là nơi các vị Bồ tát đông vầy, đất
trời trang nghiêm đẹp đẽ, chúng sinh thuần hòa sáng suốt. Tại đó, mọi người sẽ được sinh ra từ một hoa
sen, rồi tu hành cho đến khi thành Phật.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói rằng
lúc chưa đắc đạo, còn là tỳ kheo Pháp TẠNG.
Phật Adiđà đã phát 48 lời nguyện với sự hứa hẹn rằng bất cứ ai niệm danh hiệu
ngài đều sẽ được ngài dùng thần lực đưa về cõi Cực lạc sau khi chết. Chính vì
tin vào lời hứa đó mà tông Tinh độ xuất hiện kêu gọi mọi người tha thiết niệm
Phật để được vãng sinh.
Ưu điểm của tông Tịnh độ là không triết lý rườm rà nên dễ được quần chúng bình dân chấp nhận khiến cho tín đồ
Phật giáo đông hẳn lên. Mục tiêu vãng
sinh cũng đơn giản gần giống như các tôn giáo khác chuyên hứa hẹn một thiên
đường sau khi chết nên đã cạnh tranh rất tốt với các tôn giáo chủ trương sinh
thiên đường. Riêng Tịnh độ tông vượt hơn hẳn là còn nói đến trách nhiệm tu hành
sau khi vãng sinh chứ cực Lạc chưa là mục đích cuối cùng.
Sự chuyên tâm niệm Phật cũng được
xem là một cách nhiếp tâm trong thiền định, trong đó, ý niệm về tôn kính Phật
được giữ gìn thường xuyên.
Ngoài ra, do không tốn nhiều thời
gian cho triết lý nên tông Tịnh độ phát triển theo hướng nghi lễ giúp cho Phật
giáo có nghi lễ đáp ứng nhu cầu cúng kiếng cầu nguyên cho tín đồ như cầu an, cầu
siêu, tang lễ….
Nhiều người có đạo đức sẵn, lại
thêm chuyên cần niệm Phật, cũng đã tìm
thấy an lạc trong cuộc sống và khi chết.
Nhược điểm của tông Tinh độ là rời xa mục tiêu Vô ngã của Phật nên
nếu không khéo, người tu có thể trở nên ích kỷ dần dần mà không hay. Do chỉ ước
ao vãng sinh Tịnh độ nên người ta cũng bỏ quên thế giới thực tại này, không
chung tay góp sức xây dựng cuộc đời, lơ là với sự nghiệp truyền bá chánh pháp,
nhường đất cho các tôn giáo khác nhảy vào thay thế. Thường thường là sau thời
gian Tịnh độ tông phát triển mạnh thì đạo Phật lại suy yếu là vì như thế.
Câu niệm Phật có thể là phương tiện
tốt ban đầu để an trú tâm, nhưng nếu không buông bỏ được thì hành giả không thể
vào sâu trong định vì định bắt buộc phải là một nội tâm trống
vắng hoàn toàn.
Niềm tin vào ước nguyện vãng sinh
chỉ có thể là phương tiện ban đầu chứ không thể là tất cả, vì vậy, nếu không chịu
học hỏi thêm, người tu sẽ hiểu sai về Phật pháp trầm trọng, thậm chí rơi vào tà
kiến. Tin vào Phật lực quá đáng sẽ phá vỡ đạo lý Nhân quả NGHIỆP BÁO vốn là một đạo lý nền tảng tuyệt đối
trong đạo Phật. Theo Nhân quả, muốn được sinh về một nơi tốt lành sau khi chết,
người ta phải gắng công xây dựng cõi đời hiện tại này thành cõi Phật trước đã.
Dù xây dựng chưa xong, nhưng Nhân quả cũng đưa người đó về cõi Phật sau khi chết.
Bổ sung cho những khuyết điểm của tông Tịnh độ, nhiều vị tôn túc đã
đưa ra thêm những khái niệm mới như hoàn
nhập Ta bà, Tín Hạnh Nguyện, Niệm Phật theo hơi thở, niệm đến vô niệm, Tự tánh
Di đà, Duy tâm tịnh độ… Nên tập ngồi kiết già, điều thân thấy thân là vô
thường hư ảo, rèn luyện khí lực để hỗ trợ cho công phu tu tập.
2. Thiền tông
Thiền tông được cho là truyền thừa
từ tổ Bồ Đề Đạt Ma, truyền dẫn đến lục tổ Huệ Năng. Huệ Năng có hai đệ tử ưu tú
là Thanh Nguyên và Hoài Nhượng. Hai vị
trên xuất hai cao đồ là Hy Thiên và Đạo Nhất Mã tổ. Từ đó thiền tông phát triển
rực rỡ lấn hết mọi tông phái khác. Lý do bởi vì Thiền tông có được nhiều thiền
sư đạt ngộ thực tế, hơn hẳn các tông phái khác.
Thiền tông có cách dạy đạo hơi ra
ngoài truyền thống giáo điển, và được khẳng định qua lời tuyên bố (cũng được
cho là của Bồ Đề Đạt Ma):
Bất
lập văn tự
Giáo
ngoại biệt truyền
Trực
chỉ nhân tâm
Kiến
tánh thành Phật
Chủ trương của thiền tông là giúp
cho người học ngộ được Phật tánh có sẵn nơi mình. Ban đầu thì cho rằng hễ ngộ
được thì thành Phật, về sau thì bổ sung
rằng ngộ rời thì bắt đầu tu. Rất nhiều người trong THIỀn tông có được hiện
tượng đốn ngộ nên các vị vững tin vào đường lối của tông
phái mình. Sau này, thời cận đại Thiền
tông xuất hiện lối tu tham thoại đầu rất cực đoan, bài bác hết mọi đường lối
khác, kể cả kinh điển của Phật, và làm thất bại nhiều người.
Ưu điểm của Thiền tông là
giúp phát huy tính tự lực của bản thân nên thực tế hơn các tông phái dựa vào sự
linh thiêng của chư Thánh, vào thời kỳ hưng thịnh, Thiền tông sản sinh ra rất
nhiều vị thiền sư đạt ngộ cụ thể, có tâm chứng rõ ràng.
Trí tuệ của Thiền đã tạo nên vô số
luận bản đóng góp vào kho tàng văn hóa của Phật giáo, với nhiều sáng tạo kỳ
thú. Dường như trong một thời gian dài, Thiền tông đã là bộ mặt chính của Phật giáo Bắc phương vì có thực hành và có
thành tựu sở đắc tâm linh bởi công phu
thiền định.
Thiền tông cũng có tính trong sáng
vì không chấp nhận những ảo giác của tâm, trong khi có những tông phái lại xem ảo
giác là thú vị.
Những thiền ngữ bí hiểm của thiền
sư, thật ra lại có nghĩa lý đầy giá trị chứ không phải là vô nghĩa. Những người
có duyên, có khi nghe một thiền ngữ hiểm hóc lại được đốn ngộ.
Vì không còn Phật để minh định
trình độ tu chứng nên Thiền tông không đưa ra được một thang tu chứng rõ ràng,
nên các Thiền sư theo kinh nghiệm của riêng mình cũng lập ra thang giá trị
riêng, Mười bức tranh chăn trâu là một điển hình, rốt cuộc cũng ăn khớp với Tứ
thiền của Phật.
Thiền tông cũng đòi hỏi sự tinh tấn
quyết luyệt, không chấp nhận tu cầm chừng. Điều này phù hợp với Chánh tinh tấn
trong Bát Chánh đạo, và tạo nên đạo lực thật sự cho toàn bộ Phật giáo.
Nhược điểm của Thiền tông là ít để ý đến mục tiêu Vô ngã của Phật.
Chủ thuyết về Phật tánh có sẵn khiến đưa đến mâu thuẫn khi trong tâm tồn tại
cùng lúc vừa Bản ngã vừa Phật tánh. Phật tánh lại có vẻ vô dụng khi
con người tạo nghiệp mà Phật tánh không góp phần ngăn chặn gì được. Phật tánh
có hiển lộ hay không là do con người dụng công tu tập chứ chính Phật tánh lại
không tự làm nên sự giác ngộ cho mình.
Từ khi cho rằng nơi chính mình có
sẵn Phật tánh siêu việt, nhiều người đã trở nên kiêu căng lập dị.
Nhiều người được sư phụ công nhận
là kiến tánh cũng chưa có đạo đức, và trầm trọng hơn, nhiều người còn hư hỏng về
sau. Phật tánh và Kiến tánh không sản sinh ra đức hạnh một cách tự động, chính
con người phải tự mình rèn luyện rất nhiều để có đức hạnh.
Cùng một cảnh giới chứng ngộ, đức
Phật không cho rằng đó là Phật tánh có sẵn, chỉ cho rằng đó là thuộc về Tứ thiền
hay Tứ quả, trong khi Thiền tông lại lý giải rằng đó là Phật tánh có sẵn. Chủ
thuyết về Phật tánh gần với Đại ngã hay Chân Ngã của kinh điển Upanishad của đạo
Ấn độ hơn.
Thiền tông lại quá chú trọng tìm kiếm
hiện tượng đốn ngộ mà ít chú trọng tu tập từ căn bản. Hơn nữa, việc dụng công để
ý trên đầu cũng khiến Âm lực mất dần làm cho hành giả ban đầu có vẻ yên ổn, thời
gian sau lại thoát thất.
Nhiều người bắt chước nói thiền ngữ
để làm ra vẻ ta đã ngộ đạo, không ngờ chỉ hơn thua và khoe khoang.
Bổ sung cho những điều
đó, ta nên lấy mục tiêu Vô ngã làm chính, lấy việc tu dưỡng đạo đức làm nền,
rèn luyện khí lực làm sự hỗ trợ.
3. Mật tông
Chiếc nôi của Mật tông là
Tây tạng, nơi đó, đạo Phật kết hợp với tín ngưỡng có sẵn, Bon, tạo thành
một đạo Phật rất kỳ lạ. Về lý thuyết,
kinh điển Mật tông Tây tạng nhiều hơn cả Phật giáo Trung Hoa. Có những bản kinh
mà chỉ Tây tạng mới có chứ Trung Hoa cũng không có. Mật tông chú trọng về việc
tìm kiếm quyền năng, cả khí lực lẫn tâm linh. Các Lạt ma có những bí quyết về
luyện tập khí lực đặc biệt để tạo thành sức mạnh cho cơ thể. Rồi vô số những thần
chú được cho rằng để tạo nên quyền năng tâm linh.
Nhưng nếu cần nói về lý thuyết Bát nhã Tánh không, Bồ tát hạnh
.. thì trong Mật tông cũng không thiếu lý luận cao siêu.
Pháp Mật tông do ngài
Tson Khapa (Tôn Khách Ba) thiết lập chiếm ưu thế với hai Lạt ma uy tín là Đạt
Lai và BAN Thiền vẫn còn ảnh hưởng đến
ngày nay. Ở Trung Hoa, khi nhà Thanh trị vì, quốc sư Ngọc Lâm đã tạo điều kiện phát triển Mật tông qua việc ra lệnh buộc các chùa phải
tụng năm đệ thần chú Lăng Nghiêm vào buổi
khuya, và đưa mật chú vào hầu hết các nghi thức tụng niệm. Nhiều người do tụng
thần chú cũng có được năng lực đặc biệt về tâm linh.
Ưu điểm của Mật
tông là tạo thêm một khía cạnh năng lực tâm linh trong Phật giáo. Nhiều hành giả
Mạt tông thành tựu thần thông ở mức độ nhất định cũng làm ngạc nhiên mọi người.
Cuộc sống con người nhiều chướng ngại khó khăn, rồi trong lúc bế tắc, buộc họ
phải đi tìm sự cứu giúp của người có khả năng tâm linh. Chính những hành giả Mật
tông đã đáp ứng phần nào nhu cầu giải quyết khó khăn cho quần chúng, và giữ được
tín đồ cho Phật giáo.
Câu thần chú tối nghĩa, thuần túy niềm tin, được chuyên chú
trì tụng cũng được xem như một phương tiện nhiếp tâm trong thiền định. Người Ấn
độ hiểu tiếng Sancrit thì có thể hiểu được nghĩa câu thần chú, hoặc ngày nay
các thần chú cũng được dịch ra tiếng Việt giúp nhiều người hiểu nghĩa. Nhưng thật
sự, hiểu thì hiểu, mà chẳng ai biết nghĩa đó là đạo lý gì. Ví dụ câu Aum Mani
Padmé hum (Án ma ni bát di hồng) có nghĩa là Om, Viên ngọc trong hóa sen, có thể
hiểu nghĩa, nhưng chẳng ai biết đạo lý gì. Rồi tùy theo sư phụ cho người đệ tử
niềm tin vào sự thiêng liêng của câu thần chú đó để người đệ tử ôm theo suốt đời
mà nhiếp tâm trì tụng
Ưu điểm nổi bật của các tu viện Mật tông Tây tạng là những
phương pháp luyện tập khí lực rất hiệu quả. Nhờ những phương pháp đó mà các Lạt
Ma chịu đựng cái lạnh ghê người trên núi cao. Chính nhờ khí lực hỗ trợ mà sự tu
tập tâm linh của các Lạt Ma cũng đạt được nhiều kết quả phi thường. Toàn dân tộc
Tây tạng theo đạo PHẬt cũng vì chứng kiến
những quyền năng kỳ lạ của Lạt Ma.
Nhược điểm của Mật
tông là việc sử dụng quyền năng làm tăng trưởng kiêu mạn ngã chấp dữ dội. Hơn nữa
sự ham thích quyền năng tâm linh cũng khiến người ta đi lệch khỏi Chánh kiến của
đạo Phật. Nhiều phái Mật tông thờ sọ người để rèn luyện quyền năng, y hệt các đạo
phù thủy thời man rợ. Phái Mật tông ít khi nói về đạo lý sống sâu xa chân
chính, mà thích nói về quyền năng thần thông. Đức Đạt Lai Lạt Ma là điển hình
hiếm hoi.
Thời gian mới xuất gia rất quan trọng đối với người tu, cần
được huân tập những lý tưởng kiên cường với Phật pháp, lý tưởng truyền bá chánh
pháp rộng khắp, nhưng năm đệ thần chú Lăng nghiêm đã gieo vào lòng người mới
vào đạo một khái niệm mơ hồ không phương hướng.
Thật ra chính sự nghiếp tâm, ý muốn và phước tạo nên phép lạ
chứ câu thần chú vô nghĩa chỉ là chỗ dựa của niềm tin. Khi tụng câu thần chú, ta có sự nhiếp tâm, ta
có ý muốn đạt được khả năng gì đó, kết hợp với phước quá khứ, thế là ta có năng
lực. Ví dụ người muốn có khả năng chữa bệnh, thiết tha trì tùng thần chú với niềm
tin Phật. Rồi sau một thời gian tụng vào ly nước cho người khác uống thấy lành
bênh thật, thế là càng vững tin vào năng lực của thần chú, đâu ngờ rằng chính sự
nhiếp tâm thiết tha, ý muốn và phước của chính mình đã làm nên như thế.
Nhiều bài kinh của Mật tông còn đi tới cực đoan là cho rằng
trì tụng bài thần chú trong đó sẽ được công đức còn lớn hơn hóa độ nhiều người
chứng Alahán. Đây thật sự là điều làm tan loãng đạo Phật. Chính đức Phật cũng
chỉ nhận mình là một Alahán. Mặc dù công đức, trí tuệ, dung mạo, thần thông của
Phật siêu việt biết bao nhiêu lần.
Bổ sung cho Mật tông là phải thiết lập chánh kiến với Tứ Diệu đế, phải lấy mục tiêu Vô ngã làm định hướng chính, phải rèn luyện Đạo
đức làm nền tảng từ ngày đầu xuất gia. Phát huy phương pháp rèn luyện khí lực đừng
để thất truyền.
4. Nam tông
Phật giáo Nam tông Theravada truyền bá khắp từ các nước Tích
Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào Kampuchea, và một phần nhỏ tại việt nam. Chữ
Theravada có nghĩa là Thượng tọa bộ, một bộ phái được thành lập sau Phật 100
năm. Nam tông trung thành và bảo vệ giáo lý nguyên thủy từ thời đức Phật, tuyệt
đối không chấp nhận bản kinh nào xuất hiện vào các thời đại sau. Những bản kinh
Đại thừa xuất hiện về sau đều bị Nam tông liệt vào hàng ngoại đạo. Chỉ có bộ
Nikaya (Vi diệu pháp) là kinh điển chính thức được lưu truyền và tôn sùng.
Các sư Nam tông rất chuyên chú tu tập thiền định, giữ giới
luật xa xưa, do đó, đã cho phép ăn tam tịnh
nhục. Chiếc y vàng quấn vừa đẹp mắt vừa rườm rà cũng là biểu hiện của sự giữ
gìn truyền thống quyết liệt.
Ưu điểm của Nam
tông là bảo vệ một đạo Phật truyền thống để kèm bớt những sự cải cách mà có khi
đã đi quá xa của Phật giáo Bắc phương. Sự quyết liệt của Nam tông làm Bắc tông
cũng dè dặt bớt sự tự tôn của mình khi đã tự cho mình là Đại thừa và chê Nam
tông là Tiểu thừa.
Sự chuyên chú tu tập và truyền bá các phương pháp tu thiền định
cũng nêu cao được giá trị của đạo Phật giữa một thế giới quay cuồng căng thẳng.
Nhiều thiền viện tại các quốc gia Phật giáo Nam tông đã thu hút được nhiều người
khắp nơi trên thế giới về thực tập.
Kinh điển Nikaya được tôn thờ nên dù cho ngôn từ xa xưa khó
hiểu, lập lại nhàm chán, cũng vẫn được mọi người kiên tâm nghiên cứu và tìm thấy
trong đó vô số đạo lý cực kỳ quý giá.
Sự quyết tâm duy trì Giới luật cổ xưa cũng là hình ảnh đẹp
cho ta trân quý điều cổ kính dù cho nhiều giới luật thật sự không còn phù hợp.
So với Bắc tông thì Nam tông giữ được sự đồng nhất khắp nơi,
dù ở quốc gia nào. Đây là điều vô cùng đáng ca ngợi. Bắc tông vì mạnh dạn cải
cách cũng gây ra sự phân hóa, chia sẻ, biến đổi khắp nơi.
Nam tông tôn trọng mục tiêu Vô ngã của Phật rất kỹ trong sự
thực hành tu tập. Những chuẩn mực được thiết lập từ thời Phật như Tứ Thiền, Tứ
Quả, vẫn được tôn trọng theo đuổi. Lịch sử về đức Phật hay truyện tích về các vị Thánh tăng có vẻ thực và trong sáng hơn, dù
cho các chi tiết về thần thông vẫn được đề cập.
Lối tu Minh sát tuệ được phát minh sau Phật có lối theo dõi
thở bụng phồng xẹp lại rất có lợi cho việc củng cố Chân âm, tạo khí lực cho việc
tiến triển thiền định lâu dài về sau. Nhiều vị sư Nam tông có kết quả Thiền định
rất thuyết phục, đến nỗi được mọi người xưng tụng là AlaHán.
Nhược điểm của
Nam tông là không tìm hiểu để thấy được cái hay của tư tưởng Phật giáo Đại thừa
với những sự phát triển cần thiết cho phù hợp với thời đại và khu vực. Vì thế
Nam tông đã luôn coi Bắc tông như ngoại đạo góp phần làm chia rẽ đạo Phật
chung. Chúng ta cần phải đoàn kết toàn thể những người tin Phật trên khắp thế
giới lại để Phật giáo có được sức mạnh khi mà hiện nay rất nhiều thế lực xâu
đang tìm cách phá hoại đạo Phật.
Nhiều vị trong Nam tông đi tới cực đoan coi trọng Abhidamma
hơn kinh điển chính thông Nikaya. Đó cũng là dấu hiệu Nam tông bắt đầu rời xa cội
gốc dần.
Nhiều cách thiền tập của Nam tông không thống nhất được Tứ
niệm xứ mà chỉ chọn một xứ nào đó để thực hành trong bốn xứ Quán thân, quán thọ, quán tâm, quán pháp.
Hầu hết lối sống và tu của các sư Nam tông rất thụ động,
không chú trọng nhiều đến việc truyền bá Phật pháp một cách sâu rộng nên nhiều
khu vực của Nam tông dần dần mất vào tay Hồi giáo hoặc các tôn giáo khác. Có những
phường sống nhiều đời theo đạo Phật vậy
mà bây giờ bắt đầu theo Tin lành khi được cho ba triệu. Phật giáo Nam tông của
Thái lan đã không giữ được đời sống văn hóa Thái Lan, khiến cho đất nước này trở nên trụy lạc tha hóa.
Các sư quan tâm đến tiểu tiết giới luật mà không chịu quan tâm tới đại thể phát
triển Phật giáo. Nhưng rồi các sư cũng khó thể giữ được giới luật y hệt ngày
xưa, vì có khi cũng phải khật thực bằng cách ngồi trên xe lam và nhận về cả xe
vật thực.
Đời sống của sư tăng Miến điện cực kỳ thuận lợi trong khi
sát bên ngoài người dân rất nghèo khổ vất vả. Điều này khiến cho người ta cho rằng
đạo Phật chỉ có lợi cho giới tăng lữ.
Bổ sung cho những
điều trên là ta cần một Nam tông năng động trong việc truyền bá chánh pháp sâu
rộng, một Nam tông thông cảm ưu ái với Bắc tông, một Nam tông dấn thân phục vụ
hơn là lặng lẽ ngồi chờ được phục vụ.
Trong một bối cảnh đa
dạng Phật giáo như ngày nay, ta phải có bổn phận đi tìm cái chung đồng hợp
lý nhất, vừa có hiệu quả thiết thực trong việc đi đến giác ngộ giải thoát, vừa
có hiệu quả trong việc hoằng truyền chánh pháp, vừa tạo nên mẫu số chung cho
các tông phái Phật giáo tìm đến sự hòa hợp đoàn kết với nhau. Cái chung đồng đó
là Mục tiêu Vô ngã; cái chung đồng đó là Đức hạnh nhân cách hoàn chỉnh nghiêm
túc; cái chung đồng đó là đạo lý Nhân quả Nghiệp báo; cái chung đồng đó là Phật
giáo dấn thân gậy tạo được nhiều công đức vì làm lợi ích cho cộng đồng Địa cầu;
cái chung đồng đó là công phu Thiền định có phương pháp hoàn hảo nhất, phù hợp
với lời Phật dạy nhất.
Câu hỏi: Hãy nêu ước mơ về một đạo Phật cho thế giới ngày
mai
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét