Thiền học 20
Khí công tâm pháp
1.
Nguồn gốc
Không biết từ bao giờ những dân tộc Á đông tìm thấy phương
pháp rèn luyện sức mạnh một cách lạ thường là khí công. Người Á đông có vóc dáng nhỏ bé, phải chống chọi với
thiên nhiên khắc nghiệt hết sức vất vả, phải chiến đấu với nhiều kẻ thù xâm
lăng hung hãn, vì thế rất cần một nguồn sức mạnh khác thường để bổ sung cho cơ
thể yếu đuối này. Khi đi sâu vào thực hành Khí công, ta sẽ thấy rằng công phu
này là cả một triết lý phi thường, cả một kiến thức kỳ diệu về cơ thể học mà
văn minh của người đời xưa cách đây mười mấy nghìn năm không thể nào đạt được.
Chuyện Hai Bà Trưng của nước ta cưỡi voi đánh giặc là dấu
hiệu tổ tiên ta cũng đã thủ đắc được bí quyết luyện tập Khí công từ rất sớm.
Nhiều chiến công oanh liệt của các triều đại chống lại các cuộc xâm lăng phương
Bắc cũng cho thấy nền võ học của nước ta đã phát triển rất cao. Có những trận
đánh, một quân sỹ ta phải đấu với mười lính giặc, mà vẫn thắng. Sức mạnh đó
không thể là sức mạnh của cơ bắp đơn thuần.
Song song với các chiến tích hào hùng, ta cũng có huyền
thoại về nguồn gốc dân tộc là con Rồng
cháu Tiên. Phải chăng có sự liên hệ rất chắc chắn về nguồn gốc thần tiên
của dân tộc với bí quyết khí công? Phải chăng chỉ có các bậc thần tiên mới thủ
đắc các bí quyết siêu phàm về Khí công như thế và truyền dạy lại cho con cháu
mình? Phải chăng các huyền thoại về Thánh gióng, Sơn Thánh, phép thuật của các
đời vua Hùng… là không xa với sự thực?
Nhưng rồi vì sợ người xấu luyện tập được các bí quyết đặc
biệt rồi gây tổn hại cho người vô tội nên cha ông ta đã giấu giếm và làm thất
truyền hầu hết.
Hiện nay, Trung quốc quay lại nâng niu tôn trọng các truyện
võ hiệp của Kim Dung, mà trong đó, Khí công là xương sống cho nguồn cảm hứng
của tác giả.
Ngày nay, đất nước ta bước vào góp mặt với thế giới và cạnh
tranh quyết liệt về mọi lĩnh vực để không bị lạc hậu, không bị bỏ rơi, không bị
ăn hiếp. Nhưng sức vóc người Việt Nam ta nhỏ bé cũng đồng nghĩa với
yếu kém về thể lực. Khi làm chung với người nước ngoài, ta bị đuối sức không
theo nổi. Như vậy có nghĩa là ta không bao giờ đạt được những thành tựu như họ
chỉ bởi vì không khỏe như họ. Thêm một điều đau lòng nữa là văn hóa đồi trụy
tràn lan khiến cho lớp thanh niên tiêu phí sức khỏe vào các cuộc vui sa đọa,
càng làm cho năng lực của quốc gia hao tổn thêm.
Muốn cải thiện tình trạng thể lực của dân tộc, ta không còn
cách nào khác hơn là phải truyền dạy các phương pháp Khí công vào tất cả mọi
người dân, nhất là trường học.
Nhiều phương pháp Khí công đã được giới thiệu đây đó và cũng
được nhiều người hăm hở tham gia tập luyện. Nhưng cuối cùng dường như các
phương pháp đó chỉ làm người ta bớt bệnh chứ không làm người ta có sức khỏe khi
phường như sự truyền tụng về huyền thoại Khí công. Ta cần bí quyết thật sự của
Khí công ngày xưa để nâng thể lực của cả dân tộc ta lên với thế giới.
Rồi người tu hành sống đời chay lạt đạm bạc cũng vậy. Nếu
không có bí quyết rèn luyện thể lực thì sức khỏe cũng bị đe dọa, kéo theo sự sa
sút tâm linh. Nhất là công phu thiền định lại càng đòi hỏi gay gắt một tiềm lực
phi thường để hành giả có thể đi sâu vào an định. Chính đức Phật cũng là người
đã thành tựu Khí công phi thường khi còn là thái tử nên khi xuất gia tu hành,
Ngài đã dễ dàng nhiếp tâm như mong muốn.
Ta bắt đầu bằng các cách dụng công của thiền như Ngồi đúng tư thế, giữ thân mềm mại bất động, biết
rõ toàn thân, quán thân là vô thường hư ảo, thở đúng phương pháp của Phật dạy.
Sau vài tháng hay vài năm thuần thục rồi, ta phải áp dụng Khí công Tâm Pháp để
tạo ra tiềm lực. Rồi cuối cùng, chính Khí công Tâm pháp lại đưa ta vào sâu
thiền định như định hướng ban đầu.
Khí công Tâm pháp là từ các vị Tổ sư ngày xưa đặt cho Khí
công mà có tính chất của thiền vì ngày đó chưa có danh từ Thiền từ Ấn độ sang.
2.
Nguyên lý
của Khí công tâm pháp
Ta hãy quan sát quá trình phát triển của một cây xanh để
hiểu về nguyên tắc của Khí công. Từ nơi hạt mầm, rễ cây sẽ mọc ra trước nhất và
đi xuống dưới đất. Kế đến, đọt cây sẽ mọc sau và vươn lên trời. Khoảng chính
giữa ngọn và rễ, ta có vị trí gọi là gốc cây.
Trong việc chăm bón cây, ta cũng chỉ chăm bón cho gốc rễ là
chính, bằng cách tưới nước, bón phân. Cây héo, tưới nước dưới rễ; cây èo uột,
bón phân dưới rễ. Nếu ngược lại, khi cây héo, ta tưới trên những tàng lá đang
héo thì không có kết quả gì, chỉ hơi đỡ héo một chút, rồi sau đó cây sẽ chết
khô không cữu vãn được.
Cũng vậy, hai chân ta chính là rễ cây, nơi giữ gìn sức mạnh
của cơ thể. Ai bị thương tật ở chân rồi thì sức khỏe sẽ suy yếu dần. Bụng ngực
ta là thân cây, hai tay ta là nhánh cây, đầu ta là hoa quả cây. Gốc cây, phần
cực kỳ quan trọng trong việc rèn luyện khí công, chính là phần bụng từ rốn trở
xuống đến đáy (bao gồm cả phần hậu môn và
cơ quan sinh dục)
Người luyện Khí công chính là thường xuyên tưới nước bón
phân cho khu vực gốc cây này. Gốc cây cơ thể được chăm bón trong Khí công bằng hởi thở và sự để ý nhẹ nhàng. Ngoài ra tuyệt đối không dùng sức, không dẫn
động, không co thắt, không gồng, không kéo, không đẩy…
Hệ thống huyệt đạo trong cơ thể là một tổ chức đặc biệt mà Y
học Đông phương khám phá (có lẽ bởi các vì thần tiên ngày xưa) lại rất có ý
nghĩa trong Khí công. Các huyệt đạo được liên kết với nhau theo từng đường kinh
và lạc. Luôn luôn có từng cặp
Kinh và Lạc đối xứng với nhau ở hai bên phải và trái. Chỉ có kinh Nhâm ở giữa
phía trước và kinh Đốc ở giữa phía sau là đơn lẻ.
Kinh Nhâm xuất phát từ môi dưới chạy xuống dưới cằm, cổ,
ngực, bụng, rốn, xuyên qua bộ phận sinh dục, vừa đến hậu môn.
Kinh Đốc xuất phát từ hậu môn, theo xương cùng lên thắt
lưng, lên tiếp theo đường xương sống, lên gáy, lên đỉnh đầu, qua bước trán,
xuống mũi, kết thúc ở môi trên.
Nhiều huyệt nằm rải rác trên hai Kinh này là đại huyệt, có
thể sẽ dẫn đến tử vong nếu bị đánh trúng. Hai Kinh này khép kính với nhau thành
vòng chu thiên. Nhiều phái Khí công
tập trung tìm cách khai mở vòng Chu thiên này
để đạt được sức mạnh siên đẳng. Tuy nhiên, vì Ý và Khí bị dẫn lên đầu nhiều quá
nên Chân Âm bị mất khiến hành giả bị điên loạn cũng không ít.
Chúng ta theo Khí công Tâm pháp sẽ tập trung bồi bổ phần gốc
trước, tự nhiên chân khí sẽ chuyển lên khai mở và nuôi dưỡng toàn bộ huyệt
mạch, làm cho não bộ phát triển kéo theo sự phát triển tâm linh Thiền định dễ
dàng.
Trong việc bồi bổ phần gốc, ta chú trọng ba vị trí cực kỳ
quan trọng, đó là :
-
Huyệt Đan điền, một điểm nhỏ dưới dốn khoảng 4 cm.
-
Huyệt Hội âm, một điểm nhỏ nằm giữa bộ phận sinh dục và
hậu môn
-
Ba đốt xương sống dưới cùng, gọi là Long Vỉ Quan.
Ba vị trí này nối với nhau thành một cung tròn không khép
kín, cũng không đối xứng, vì huyệt đan điền nằm ở vị trí cao hơn Long Vỉ quan.
Cung tròn này gọi là Khiêm quan.
Huyệt Đan điền tuy nằm ở dưới bụng, nhưng lại chịu trách
nhiệm với thùy trán trên não. Khi Đan điền được sung mãn thì Thùy trán khai mở
khiến hành giả đạt được Chánh niệm Tỉnh giác, tâm trở nên rỗng sáng, không bị
xao lãng theo vọng tưởng.
Huyệt Hội âm tuy nằm ở dưới đáy nhưng lại chịu trách nhiệm
với đỉnh đầu. Khi Hội âm sung mãn thì Đỉnh đầu khai mở khiến hành giả trở nên
có trí tuệ sắc bén, dễ nhìn ra lỗi lầm sâu kín của mình, lâu ngày tạo nên trực
giác.
Long vỉ quan chịu trách nhiệm vùng não rộng lớn phía sau.
Khi Long vỉ quan sung mãn thì vùng não phía sau được khai mở khiến cho hành giả
vào sâu trong định dễ dàng.
Khi toàn bộ Khiêm
quan sung mãn thì tạng phủ dần dần được chỉnh sửa, cải thiện, bồi bổ, sức
đề kháng được nâng cao. Chức năng của thận, gan, tim, phổi đều được tăng cường.
Đặc biệt hai chân rắn chắc trước, từ từ hai tay sẽ mạnh theo sau.
3.
Dụng công
Muốn dụng công thực hành Khí công tâm pháp này, trước hết
hành giả phải có nền tảng của Thiền đạo Phật, bao gồm những công phu
căn bản như ngồi đúng tư thế, giữ thân mềm mại bất động, biết rõ toàn thân,
quán thân là vô thường hư ảo, thở ra thở vào theo Tứ Niệm Xứ. Nền tảng này được
củng cố vài năm cho vững chắc.
Hành giả cũng phải là người biết tu dưỡng Đạo đức với tâm lý căn bản như Tôn kính Phật, từ bi thương
yêu chúng sinh, khiêm hạ để tôn trọng mọi người. Nếu xuất hiện tâm lý Kiêu mạn
thì lập tức phải dừng luyện tập Khí công liền vì tâm lý kiêu mạn sẽ kéo khí lực
từ Chân âm chạy lên dữ dội và phá hư bộ não không lâu sau đó.
Kế đến, hành giả cũng phải thường xuyên gây tạo nhiều công đức bằng cách giúp đỡ mọi người trong cuộc sống.
Nếu có cơ hội thì không bao giờ tiếc công tiếc của để giúp người. Ngày xưa các
võ sinh Thiếu Lâm tự phải công quả gánh nước bửa củi để tạo công đức rất nhiều
trươc khi đi vào luyện tập chuyên sâu.
Khi vào ngồi tập Khí công, hành giả cũng bắt đầu giống như
nghi thức của Thiền, tác ý khởi ba hoặc bốn tâm hạnh căn bản, dụng công theo
Thiền khoảng 10 phút rồi mới bắt đầu áp dụng Khí công Tâm pháp như sau:
-
Bàn tay phải để dưới bàn tay trái như thường lệ, nhưng
đan chen một ngón trỏ với nhau để giữ hai bàn tay cho kỹ.
-
Hai đầu ngón út chạm vào nhau và chỉa vào huyệt Đan
điền. Chỉ chạm nhẹ, vừa đủ, không đẩy sâu, không rời ra khỏi da. Động tác này
dùng để định vị huyệt đan điền trong suốt buổi tập. Việc giữ nguyên hai ngòn
tay út suốt buổi tập như vậy khiến ta có cảm giác mất công, nhưng rất cần thiết
nên phải tuân thủ.
-
Khi hít vào, ta cũng để cho hơi thở vào tự nhiên không
can thiệp y như Thiền Tứ niệm xứ, nhưng tâm nhẹ nhàng an trú tại một điểm Đan
điền. Nhờ hai ngón tay út định vị Đan điền nên ta cứ việc để tâm an trú nhẹ
nhàng tại đó, khi hơi thở vào. Điều cực kỳ hệ trọng là ta chỉ an trú ngoài da
chứ không được để tâm sâu vào một ly nào bên trong da thịt. Hoàn toàn ở ngoài
da. Chỉ ở ngoài da. Có người sẽ thắc mắc nếu tâm như vậy thì đâu còn là công phu biết rõ toàn thân của
Thiền nữa. Đúng lúc đó ta không còn hoàn toàn biết rõ toàn thân nên ý niệm kiểm
sót toàn thân vẫn âm thầm tồn tại.Không lâu sau đó, khi tâm an định không còn
vọng tưởng, tự nhiên cái biết toàn thân sẽ xuất hiện trở lại với trạng thái mới
mẻ lạ lùng vững chắc.
-
Bước thứ hai là nín thở. Nín thở khác với dừng hơi thở.
Dừng hơi thở chỉ là dừng lại mà không đóng van mũi. Còn nín thở là đóng van mũi
y như khi ta lặn dưới nước phải nín thở đáng van mũi để không cho nước vào phổi
vậy. Khi nín thở thì tâm ta an trú nhẹ nhàng ở huyệt Hội âm. Cũng phải nhớ là
chỉ để ý ngoài da, không được để tâm sâu vào da một lý nào.
Ta tập nín thở để tâm an trú Hội
âm như vậy vài ba tháng cho quen rồi đổi sang phương pháp cố căn . Khi nín thở, ta cố căn một lần, hoặc hai lần, tùy khả năng
mỗi người. Công phu Cố căn rất quan trọng, khiến cho não bộ ta vững mạnh lên
từng ngày.
-
Bước thứ ba là khi hởi thở đi ra, nhớ là để cho hơi thở
ra tự nhiên, ta không được can thiệp điều khiển, khi hơi thở đang đi ra thì ta
an trú tâm tại Long vỉ quan (ba đốt xương sống dưới cùng). Nhớ là cũng chỉ an
trú tâm ở ngoài sát da, không được để sâu vào đốt sống.
-
Nhớ là ta không được dẫn hơi thở đi, không được kéo,
đẩy gồn, níu gì cả. Chỉ nhẹ nhàng đổi chỗ an trú tâm theo ba bước khác nhau vậy
thôi.
Dấu hiệu để biết ta tu đúng là
nguyên vùng đáy của bụng dưới ấm hẳn lên, tâm rỗng nhẹ, dê kiểm soát vọng
tưởng, đi vào an định dần dần. Trong đời sống thì ta có sức khỏe hơn, trí óc
minh mẫn hơn. Còn nhiều kết quả lý thú mà mỗi người chúng ta sẽ cảm nhận khi
dụng công tập luyện.
Bây giờ mỗi thời ngồi thiền, ta
tập Khí công tâm pháp này cũng chính là tu tập Thiền định, vì phương pháp Khí
công giúp ta kiểm soát vọng tưởng hiệu quả hẳn lên, giống như ngày xưa Phật nhờ
có nội lực sung mãn mà vào định dễ dàng.
Ngoài ra, trong bất cứ lúc nào
rảnh rỗi, ta đều có thể tìm chỗ "dợt" năm hoặc mười lăm phút gì cũng
đều rất tốt. Ta có vòng tuần hoàn hỗ tương như sau:
-
Càng ngồi tập nhiều thì càng có công lực.
-
Càng có công lực thì càng ngồi được nhiều.
Nếu ta ngồi ít thì ít có công
lực. Và ít có công lực thì lại không ngồi được lâu. Nếu khởi điểm của ta là ít
công lực nên ngồi cũng không lâu, thì ta sẽ bổ sung bằng cách là ngồi nhiều lần.
Ta sẽ tranh thủ ngồi bất cứ khi
nào có dịp, dù mỗi lần ngồi như vậy chỉ được năm mười phút. Nhưng ngồi nhiều
lần nên công lực tăng lên dần dần, để khi vào ngồi chính lúc tối hoặc khuya thì
ta sẽ ngồi được rất lâu.
Sau vài tháng hoặc vài năm, ta đổi sang một bước cao hơn, đó là:
-
Khi hơi thở vào, ta an trú tâm cả trên Khiêm quan, nghĩa là cả một đoạn cung tròn kéo từ Đan
điền tới Hội âm và Long vỉ quan. Nhớ là cái cung tròn Khiêm quan đó nằm sát
ngoài da, không được lún sâu vào da thịt một ly nhỏ nào.
-
Khi nín thở, vẫn an trú tâm tại Khiêm quan nhưng Cố căn
vài cái. Công phu Cố căn này chỉ được thực hiện khoảng 15 phút đầu thôi, sau
đón nín thở không Cố căn nữa, chỉ tiếp tục an trú nhẹ nhàng tại Khiêm quan.
-
Khi hơi thở ra, ta cũng chỉ an trú tâm trên Khiêm quan.
Tuy cả ba bước đều an trú tâm tại
Khiêm quan, nhưng khi tâm vào định, cả thân chúng ta hiện ra rất rõ, như cái
Kim tự tháp sừng sững vững chắc. Cả tâm chúng ta cũng hiện ra rỗng suốt thanh
tịnh, những ý niệm bí mật sâu kín phát hiện nhanh chóng. Còn công lực thì tùy
duyên phước mỗi người mà tăng tiến dần dần.
Giải đáp:
Hỏi: Tập luyện Khí công như vậy
có được giải thoát không?
Đáp: Nếu ai hướng tâm đi tìm công
lực phi thường thì sẽ không giải thoát. Nếu ai hướng về định tâm để đi đến Vô
ngã thì sẽ giải thoát.
Hỏi: Ngoài tư thế ngồi kiết già,
có thể tập khí công trong tư thế khác được không?
Đáp: Ta có thể vừa chạy jogging
vừa theo dõi để tâm ở Khiêm quan, nhớ nín thở ở bước thứ hai. Khi ngồi chuyện
vãn với ai, ta vẫn âm thầm để tâm ở Khiêm quan để tranh thủ chút nào hay chút
ấy.
Hỏi: Tại sao lại gọi là Khiêm
quan?
Đáp: Vì đó là vị trí thấp nhất,
hèn kém nhất. Nơi thấp nhất cũng là nơi phát sinh nguồn năng lực cho cơ thể.
Cũng giống như hạnh Khiêm cung làm cho vô số đức hạnh khác nảy nở theo.
Mong sao cho dân tộc ta, những
người có lòng thiện, đều được tăng trưởng công lực để sống lợi ích hơn.
Trích từ Giáo trình thiền học, Tỳ
Kheo Thích Chân Quang, Nhà xuất bản Tôn giáo