Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2013

Thiền học 2: Ý nghĩa của Thiền trong Bát Chánh Đạo

Thiền học 2
Ý nghĩa của Thiền trong Bát Chánh Đạo


Theo bát chánh đạo, Thiền thuộc về Chánh niệm và Chánh định, đứng ở vị trí cuối cùng của lộ trình tu tập giải thoát theo Phật Pháp, nghĩa là khá cao. Tuy nhiên không có cái gì ở trên cao mà lại không được nâng đỡ bởi những cái ở dưới thấp. Do đó, căn bản của Thiền chính là những chi phần khác trong Bát Chánh Đạo như Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn.
Muốn sự tu Thiền được vững chắc, hành giả phải thực hành các chi phần trên thật dày, nhiều thời gian, sung mãn. Chánh Nghiệp được hiểu là làm phước. Hành giả phải tạo phước rất lớn mới có thể dễ nhiếp tâm vào định. Chính vì không nắm vững sự liên quan của Thiền trong Bát Chánh Đạo mà nhiều người đã chủ trương rằng muốn tu Thiền phải ở yên, không làm gì cả để khỏi bận tâm. Thật ra, càng bận tâm làm điều thiện chừng nào, người ta lại dễ nhiếp tâm chừng nấy.
Trong Bát Chánh Đạo, chỉ có Chánh Kiến là học, còn lại các chi phần khác đều là hành. Ngày trước các trường Phật Học thiên về Học. Ngày nay các vị tôn túc đã bắt đầu ý thức về Hành. Ngay khi còn ở Trường, Tăng Ni sinh đã phải được cho thực hành những gì mình đã học để củng cố đạo hạnh. Rút kinh nghiệm ở nhiều giai đoạn trước, thiếu thực hành, Tăng Ni sinh ra trường không làm gì được nhiều cho công tác Phật sự.
  1. Với Chánh Kiến
Chánh Kiến là sự hiểu biết đúng về Giáo Pháp, về ý nghĩa của cuộc sống. Trong Chánh Kiến, luật Nhân Quả Nghiệp Báo được xem là một nền tảng quan trọng. Khi có sự hiểu biết về luật Nhân Quả sâu sắc, chúng ta biết tự kiềm chế kiểm soát chính mình trong từng ý nghĩ hay hành vi, và điều đó góp phần hoàn thiện Đạo đức cá nhân.
Chánh Kiến cũng là sự định hướng giải thoát rõ ràng để khi tu Thiền, ta không lạc qua những mục đích nhỏ bé khác.
Chánh Kiến cũng giúp ta xác định mục tiêu Vô Ngã của Thiền định khiến cho ta không bị tăng trưởng bản ngã khi có những dấu hiệu tu tiến.
Chánh Kiến như là tấm bảo đồ vạch rõ đường đi đến giác ngộ. Nếu bản đồ sai (tà kiến) thì ta không thể đi đến đích giác ngộ dù cố gắng công tu tập. Để có được Chánh kiến, ta phải học hỏi Giáo lý. Tuy nhiên, rừng Giáo lý mênh mông, trải qua nhiều ngàn năm, thật sự đã có sự pha tạp thêm thắt. Nếu không có duyên lành, không được Phật gia hộ, ta sẽ không học được những Giáo lý chuẩn xác đúng hướng; có khi chỉ học được những quan điểm lệch lạc theo cá nhân của một số người hay một tông phái chuyên biệt nào đó. Ngay từ ban đầu trong việc học Giáo lý, ta phải hết sức cẩn thận và phải biết cầu Phật gia hộ.
  1. Với Chánh Tư Duy
Bước đầu của việc tu tập Thiền định luôn luôn là công phu thanh lọc nội tâm cho thuần thiện. Từ rất lâu, tâm ta là sự trộn lẫn giữa những ý niệm Thiện và Ác, đúng và sai, Chánh và Tà. Không bao giờ có một nội tâm thanh tịnh mà còn tồn tại Ác niệm. Phải đi xuyên qua cả một quá trình thanh lọc suy nghĩ đến mức độ thuần thiện thì sự thanh tịnh mới xuất hiện kế theo đó.
Hành giả phải tự biết nghiêm khắc đánh giá những ý nghĩ của mình thường xuyên. Ta chưa dừng được ý nghĩ, nhưng mỗi khi ý nghĩ đi qua rồi, ta phải lập tức đánh giá xem ý nghĩ đó là thiện hay ác, đúng hay sai. Nếu đó là ý nghĩ sai quấy thì ta phải âm thầm sám hối ngay. Lâu dần, tiến thêm một bước nữa, ta chỉ còn khởi những ý nghĩ lành mà thôi. Khi tâm đã thuần thiện, vấn đề còn lại là giải quyết giữa tịnhđộng.
Những tâm niệm bất thiện luôn luôn kích thích sự xao động, ngược lại, những tâm niệm thiện luôn luôn giữ gìn tâm về phía an tĩnh. Vì vậy, Chánh tư duy và Chánh Niệm có mối liên quan chặt chẽ với nhau.
  1. Với Chánh Ngữ
Thiền được ứng dụng trong lời nói nghĩa là hành giả phải luôn kiểm soát được câu nói trước khi phát ra ngoài. Hành gia ban đầu tập đắn đo cân nhắc lời nói của mình trên năm khía cạnh sau:
- Điều sắp nói ra là đúng hay sai với Đạo lý
- Điều sắp được nói ra có nên nói hay không.
- Những người này có thích hợp để được nghe không.
- Ta nói ra trong tâm trạng bình an hay phiền não
- Nếu những điều này được lan rộng thì có hại gì không
Lúc mới thực hành thì ta sẽ thấy hơi bị chậm chập, lâu ngày trí tuệ xét nét sẽ tăng nhanh, và khi thuần thục thì mỗi lời nói đều ẩn chứa sự chín chắn sâu sắc. Sự tỉnh tảo xem xét vấn đề và xét nét nội tâm khi phát biểu cũng là một cách thể hiện của Thiền.
  1. Với Chánh Nghiệp
Chánh Nghiệp tức là làm phước, là tạo công đức. Trong công phu thiền định, phương pháp hay kỹ thuật chỉ là bề nổi. Chính công đức từ vô số việc làm Thiện mới là yếu tố quan trọng âm thầm chi phối và giúp ta nhiếp được tâm vào an định. Thiếu phước, không ai có thể nhiếp tâm vào định.
Khi làm điều Thiện, tâm thiện của ta được củng cố vững chắc hơn là chỉ suy nghĩ về điều thiện. Thiện tâm vững chắc cũng có nghĩa là định tâm dễ hiện hữu hơn. Đó là quy trình tâm lý có tính nguyên tắc.
Kế nữa, khi ta giúp cho mọi người an vui, ta đã gieo nhân lành an vui cho chính mình. Cộng chung vô số niềm an vui đó, ta sẽ có được nội tâm an định.
Từ những nguyên tắc về tâm lý và nhân quả đó, chúng ta phải sống suốt một đời siêng năng làm những điều thiện để hỗ trợ cho công phu thiền định. Ai cho rằng tu Thiền phải không làm thiện hay ác chỉ là hiểu lầm.
  1. Với Chánh Mạng
Chánh mạng là một sinh kế, một nghề nghiệp, một cách nuôi thân hiền lành và chân chính. Người cư sĩ thì có vô số nghề nghiệp để lựa chọn miễn sao vừa làm ra tiền vừa không gây ác nghiệp. Người cư sĩ được khuyến khích làm giàu để có tiền làm phước. Cư sĩ trong đạo Phật cũng phải biết giúp nhau làm ăn.
Tu sĩ hầu như chỉ sống nhờ sự giúp đỡ cúng dường của cư sĩ. Khi nhận sự giúp đỡ của cư sĩ như thế thì 50% công đức tu hành phải trả lại cho thí chủ. Như vậy, người xuất gia phải tu tập Thiền định rất tinh cần và rất có phẩm chất mới có dư công đức tích lũy lại cho mình.
  1. Với Chánh Tinh tấn
Chánh tinh tấn là quyết tâm cực độ cần phải hun đúc trước khi bước vào tu tập Thiền định vì công phu Thiền định cực kỳ khó khăn, phức tạp, tỉ mỉ, gian khổ. Nhiều người theo đạo Phật nhưng không theo nổi con đường Thiền định vì lý do này. Nhưng nếu không có sức định sâu thì không thể vượt qua được Ngã chấp để Giải thoát.
Tuy nhiên Chánh Tinh tấn không khuyến khích sự liều mạng. Người tu Thiền phải tỉnh táo biết lúc nào nên cố gắng, lúc nào lên lui lại chuẩn bị thêm.
Câu hỏi: Trình bày những khó khăn gặp phải khi tọa Thiền. Cho biết phương hướng khắc phục.
Trích từ: Giáo trình Thiền học, Tỳ Kheo Thích Chân Quang Biên soạn, Nhà xuất bản tôn giáo.
Thiền học 1: Khái niệm về thiền
Bài giảng về Thiền học 2
*Thiền trong mỗi quan hệ với Bát Chánh Đạo



Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

Thiền học 1: Khái niệm về thiền

Thiền học 1
Khái niệm về thiền
  1. Ý nghĩa từ vựng thiền
Thiền là từ chữ Hán, …, đọc đủ là Thiền na, có xuất xứ từ tiếng Pali Jhàna, có nghĩa là gom tâm lại, nhiếp tâm lại. Tuy nhiên, ngữ căn Jhà lại có liên quan đến ý nghĩa thiêu đốt.
Jhàpeti Thiêu đốt
Jhàypana sự đốt lửa
Jhàyana sự thiêu đốt, sự tham thiền
Jhàyì người tham thiền
Jhàyaka người tham thiền
Có lẽ ngày xưa những người ngồi thiền hay đốt lửa gần đấy hoặc thấy trong người ấm lên như có đốt lửa nên đã sử dụng hai từ này gần nhau như vậy
Về sau, về phía Trung Hoa, người ta thêm từ phía sau như Thiền quán, Thiền định, Thiền tọa, Thiền tông, Thiền khách, Thiền đường, Thiền sư,… ít ai dùng cả hai âm Thiền na như xưa.
Tuy nhiên, ý nghĩa chính của Thiền vẫn là sự thực hành đưa đến tâm trí an tĩnh, không xuất hiện ý nghĩ, không dấy động tình cảm, và vẫn sáng suốt.
Người ta liên hệ Thiền với tư thế ngồi kiết già bất động vì từ đức Phật cho đến các vị thánh nhân đều ngồi thiền với tư thế đó.
Sự phát triển rộng hơn cho phép người ta thực hành Thiền khi đi bộ thong thả, đúng phương pháp. Còn đối với những người có khả năng giữ được tâm, kiểm soát tâm thường xuyên thì được gọi là người biếtThiền trong bốn oai nghi đứng đi nằm ngồi.
  1. Trước Phật đã có thiền
Theo lịch sử của Phật thì khi mới từ bỏ hoàng cung xuất gia làm sa môn, Phật đã đến tham học với hai vị đạo sĩ nổi tiếng đương thời là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Hai vị này được cho là đã chứng được Vô sở hữu xứ định và Phi tưởng Phi phi tưởng xứ định. Đó đã là hai mức định cực kỳ cao, có thần thông, và gần sát tới bờ mé của Giải thoát.
Đức Phật đã nhanh chóng chứng được y hệt như các vị thầy của mình và được các vị đó quý trọng mời hợp tác trong việc hướng dẫn cho những người còn lại. Đức Phật đã nêu ra một câu hỏi về bản ngã và vì không được giải đáp thỏa đáng, Ngài đã ra đi để từ mình giải quyết phần còn lại. Sau này Đức Phật đã tự mình giải quyết vấn đề trọng yếu đó và thành lập một tôn giáo mới cho thế giới.
Các vị đạo sĩ thời đó chịu ảnh hưởng của các kinh điển Vệ đà (Veda) gồm bốn quyển và Áo nghĩa thư (Upanishad) – Veda có nghĩa là trí tuệ; Upanishad có nghĩa là ngồi với nhau. Vệ đà có trước rất sớm khoảng 1000 năm trước công nguyên; Áo nghĩa thư có khoảng 200 năm trước công nguyên. Giáo nghĩa của các kinh điển này thường chú trọng đến Brahman (Phạm Thiên) và Atman (Bản ngã). Thiền định được xem là phương pháp để Atman hòa đồng cùng Brahman. Một đại ngã, thần ngã, thánh ngã cũng được xem là mục tiêu của sự tu tập. Nhưng Đức Phật đã phát hiện ra là tất cả trạng thái đó đều còn chỗ cho Bản ngã tồn tại nên không thể giải thoát. Đức Phật đã tự mình tìm cách thoát được Bản ngã sau 49 ngày nhập định dưới cội cây Bồ đề và đạt được giác ngộ. Đây là điểm mấu chốt khác nhau giữa thiền của đạo Phật và thiền của ngoại đạo Ấn độ.
  1. Sau Phật vẫn tiếp tục phát sinh nhiều phái Thiền khác
Ấn độ giáo mượn nhiều ý tưởng của đạo Phật để hoàn thiện chính mình, xuất hiện đường lối Yoga nổi tiếng ngày nay. Yoga vừa luyện thân thể, vừa luyện định lực, vừa luyện luân lý.
Duy thức học trong Phật giáo Phát triển đi sâu vào phân tích tâm lý để mong tìm sự giải thoát. Rồi Mật tông xuất hiện, phát triển mạnh về phía Tây tạng, đưa thêm thần chú, ấn quyết, mạn đà la (mantra) vào nghi thức và sự tu luyện tạo nên một Phật giáo có quyền năng huyền bí.
Thiên Thai tông của Ngài Trí Khải cũng gây ảnh hưởng rất lớn trên phương diện tu tập thiền quán.
Cuối cùng là Thiền tông với vô số huyền thoại và thiền sư chiếm ưu thế gần như tuyệt đối suốt nhiều thế kỷ ở Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên.
Những phái thiền về sau này tuy vẫn thuộc về đạo Phật, nhưng đường lối tu hành bên trong vẫn có sự sai khác với đạo Phật từ thuở ban đầu. Cũng có một vài lối Thiền có khuynh hướng cực đoan, hai bài bác, kể cả bài bác Giáo lý.
  1. Thiền và thế giới hiện nay
Hiện nay Thiền đang được nghiên cứu khắp nơi trên thế giới như một môn vệ sinh tinh thần, thể dục trí não. Nhiều quốc gia đã mạnh dạn đưa môn thực hành thiền vào học đường, trại giam. Nhiều tín đồ, tu sĩ của các tôn giáo khác cũng âm thầm nghiên cứu thực hành Thiền.
Đồng với xu thế phát triển Thiền của Phật giáo, thì Khí công của Trung quốc, Yoga của Ấn Độ giáo cũng đang cạnh tranh phổ biến. Phải nói thể ký 21 này, thế giới sẽ chứng kiến nhiều điều ngoạn mục về xu thế tu tập tâm linh trên khắp hành tinh. Quốc gia nào chậm bước sẽ lạc hậu tức khắc.
  1. Thiền và Phật giáo Việt Nam
Sự tu tập Thiền của Việt Nam chỉ phát triển trở lại khoảng 30 năm gần đây, và đang trở thành trọng tâm của Phật giáo, mặc dù khuynh hướng Niệm Phật, Tụng kinh vẫn còn nhiều ưu thế. Đó là do Phật giáo Việt Nam đang có khuynh hướng hòa theo sự Phát  triển của Phật giáo thế giới vốn thiên vị về Thiền. Tuy nhiên, số Tăng sĩ Việt Nam thực hành Thiền một cách đều đặn ổn định mỗi ngày thì chưa cao, nhiều người tu Thiền tùy hứng tùy lúc, chưa xem Thiền là công phu không thể thiếu của sự tu hành đạo Phật. Chúng ta phải hiểu rằng Thiền đem lại sức mạnh cho Đạo Phật để mà gắng công tu tập.
  1. Thiền trong một tổng thể
Mặc dù Thiền là phương pháp nhiếp tâm vào thanh tịnh yên lắng, nhưng Thiền không thể tách rời khỏi một tổng thể của con người. Tổng thể đó gồm những điều như sau: Sức khỏe, Đạo đức, Giới hạnh, Công đức, Đạo lý, Kỹ thuật. Nghĩa là thiền giả phải sống một đời sống lành mạnh, làm được nhiều việc phước, có sức khỏe, hiểu về Giáo lý, nắm được phương pháp nhiếp tâm trong khi ngồi thiền… Thiếu một trong những điều trên đây, Thiền không thể thành tựu.
  1. Thực hành là quan trọng
Muốn hiểu Thiền thì phải thực hành Thiền với tất cả quyết tâm. Muốn hiểu sâu đạo Phật cũng phải thực hành Thiền với tất cả ý chí. Chúng ta không thể nghiên cứu Thiền bằng cách nghiền ngẫm lý thuyết. Sự thực hành Thiền sẽ rất gian khổ, nếu thiếu ý chí và thiện căn, người ta sẽ bỏ cuộc.
Câu hỏi: Điểm khác biệt giữa Thiền của đạo Phật và Thiền của Ngoại đạo là chỗ nào?

Trích từ: Giáo trình Thiền học, Tỳ Kheo Thích Chân Quang Biên soạn, Nhà xuất bản tôn giáo. Nghe bài giảng chi tiết

Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2013

1 Tổ Ma Ha Ca Diếp

Đồng thời đức Phật
Ngài dòng Bà-la-môn (Brahmana) ở nước Ma-Kiệt-Đà, cha tên Ẩm-Trạch, mẹ tên Hương-Chí. Thuở bé, Ngài dung nghi trang nhã, toàn thân màu vàng, ánh sáng chiếu rất xa. Thầy tướng xem tướng ngài nói: 
─ Đứa bé nầy đời trước có phước đức thù thắng, lẽ ưng xuất gia 
Cha mẹ Ngài nghe nói lo sợ,cùng nhau thầm bàn (sẽ cưới vợ đẹp để làm nhụt chí của nó). Vừa lớn lên, cha mẹ liền lo chọn người lập gia thất cho ngài, nhưng ngài một bề từ chối, sau cùng bất đắc dĩ ngài phải nói:
─ Có người con gái nào thân đồng màu sắc như con, con mới ưng cưới.
Cha mẹ ngài bèn đúc một tượng vàng, đẩy đi khắp trong nước, tìm người nữ nào giống màu sắc ấy, cưới cho ngài. Quả nhiên, gặp được một cô con gái giống hệt như ngài, thế là ngài phải lập gia đình

Bởi đời đức Phật Tỳ Bà Thi (Vipasyin), sau khi Phật Niết-bàn, chúng xây tháp thờ Xá-lợi, trong tháp có an trí một pho tượng Phật phết vàng. Lâu ngày pho tượng trên mặt bị lở khuyết. Khi ấy, ngài ca-diếp là thợ đúc vàng, có cô gái nhà nghèo, vì thấy mặt Phật hư khuyết, cô còn một đồng tiền vàng đem đến nhờ Ngài ca-diếp nấu ra để phết lại tượng Phật.Thấy cô phát tâm tu bổ tượng Phật, ngài rất hoan hỷ đứng ra làm chu tất việc nầy, nhơn đó, hai người cùng nguyện đời đời sẽ làm vợ chồng, mà coi như đôi tri-kỷ, chớ không vì tình dục.
Do phước báo đó nên 91 kiếp thân thể hai vị đều toàn một màu vàng. Sau sanh cõi Phạm-thiên, hết phước cõi Phạm-thiên chết, sanh về cõi nầy trong nhà Bà-là-môn giàu có hiện tại. Tuy hiện nay hai vị làm vợ chồng, mà sống như tình tri-kỷ, không có ý dâm dục.
Đến sau, cả hai đều xin cha mẹ xuất gia. Cha mẹ bằng lòng,ngài liền xuất gia làm Sa-môn vào núi tu hạnh Đầu-đà (Dhuta). Một hôm,nhơn nghe trong hư không có tiếng bảo: 
─ Phật đã ra đời, nên đến đó thọ giáo. 
Ngài liền tìm đến tịnh-xá Trúc-Lâm, chí thành đảnh lễ Phật. 
Phật bảo: 
─ Lành thay Tỳ-kheo đến đây, hãy cạo bỏ râu tóc đi. 
Ngài liền cạo bỏ râu tóc, thọ giới Tỳ-kheo, mặc y cà-sa. Từ đây, ngài theo Phật hiểu sâu giáo Pháp, tinh tấn tu hành không lúc nào lơi lỏng, cho đến chứng quả A-La-Hán. Có lần ngài từ xa đến ra mắt Phật. Các chúng Tỳ kheo ngồi vây quanh Phật, trông thấy ngài mặc y bằng vải rách, thân hình tiều tụy, có ý thầm khi. Phật biết, bèn bảo:
─ Ca-Diếp đến đây! Ta nhường nửa tòa cho ngồi. 
Ngài vẫn không dám ngồi. Phật bảo các Tỳ-kheo: 
Ta có đại từ đại bi, các thiền-định tam-muội và vô lượng công đức để tự trang nghiêm. Tỳ-kheo Ca-Diếp cũng như thế. Do đó,ta nhường nửa tòa cho Ca-Diếp ngồi. Chúng Tỳ-kheo đều dứt tâm ngạo mạn, lại thầm cung kính ngài.
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu ). Phật bảo :
─ Ta có chánh Pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu-tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn-tự, ngoài giáo lý truyền riêng, nay giao phó cho ngươi. Ngươi khéo gìn giữ chánh pháp nầy, truyền trao mãi đừng cho dứt, đến sau sẽ truyền cho A-Nan. Thế-Tôn đến trước tháp Đa-Tử gọi Ma-Ha-Ca-Diếp đến chia nửa tòa cho ngồi, lấy y Tăng-Già-Lê quấn vào mình Ca-Diếp, rồi nói kệ phó pháp :
Pháp bổn pháp vô pháp
Vô pháp pháp diệc pháp
Kim phó vô pháp thời
Pháp pháp hà tằng pháp. 
     Dịch: 
                   
 Pháp gốc pháp không pháp
Pháp không pháp cũng pháp
Nay khi trao không pháp
Mỗi pháp đâu từng pháp. 
Ngài già yếu, Phật nhiều lần khuyên: 
─ Ca-Diếp tuổi đã già, nên ở một chổ nhận những thức cúng dường của thí chủ, chớ đi khất thực nhọc nhằn.
Ngài bạch Phật :
─ Con tuy già yếu, song không dám ở một chổ thọ sự cúng dường của thí chủ. Vì sợ e sau này, các Tỳ kheo đời sau sẽ nói :
─ Đệ tử lớn của Phật trước kia vẫn ở một chỗ thọ sự cúng dường, rồi họ sanh phóng túng.
Lúc Phật Niết-bàn tại thành Câu-Thi-Na trong rừng Sa-La, thì ngài đang ở trong động Tất-Bát-La (SthaviRa) trên núi Kỳ-Xà-Quật. Nghe tin Phật Niết-bàn, ngài và 500 đệ tử vội vã hướng về thành Câu-Thi-Na.  Đến nơi, đã đễ Phật vào kim-quan, ngài buồn bã. Thầy trò đi nhiễu kim-quan ba vòng, rồi đảnh lễ Phật. Khi ấy, hai bàn chân Phật duỗi ra ngoài kim-quan để an ủi ngài. Ngài vuốt ve hai bàn chân Phật, lòng rất bi thảm.
Sau khi thiêu thân Phật xong,ngài tuyên bố với chúng Tỳ-kheo: 
─ Xá-lợi của Phật giao cho trời, người xây tháp thờ làm ruộng phước, còn trách nhiệm Tỳ-kheo chúng ta phải lo kết tập kinh điển để lưu lại đời sau.
Ngài bèn nói kệ : 
                        Như-Lai đệ tử
Thả mạc Niết-bàn
Đắc thần thông giả
Đương phó kiết tập 
    Dịch: 
                        Đệ tử Như-Lai
Chớ vội Niết-bàn
Người được thần thông
Nên đến kiết tập . 
Thế là, sau Phật Niết-bàn 7 ngày, Ngài triệu tập 500 vị đại A-La-Hán tụ hợp tại núi Kỳ-Xà-Quật, trong động Tất-Bát-La kiết tập.nChỉ có tôn giả A-Nan không được dự hội, vì chưa sạch các lậu, Tôn-giả A-Nan buồn bả, suốt đêm chuyên tâm thiền-định, đến gần sáng liền chứng ngộ, các lậu dứt sạch được quả A-La-Hán .
Sau đó,tôn giả được mời dự hội. Ngài thưa toàn chúng:
─ Tỳ-kheo A-Nan nhớ giỏi bậc nhất, thường theo hầu hạ Như-Lai, nghe pháp Phật nói ghi nhớ không sót, như nước rót vào bình không rơi ngoài một giọt, nên mời kiết-tập tạng Kinh và tạng Luận . Mời Tỳ-kheo Ưu-Ba Ly kiết tập tạng Luật. Toàn chúng đều hoan-hỷ chấp thuận.
Hội kiết-tập nầy, Ngài là chủ-tịch. Sau cuộc kiết tập đã viên mãn,nhơn duyên độ sanh đã xong xuôi, Ngài thấy tuổi đã già yếu lắm, bèn gọi tôn giả A-Nan đến bảo:
─ Khi Như-Lai sắp vào Niết-bàn có dặn ta đem chánh pháp nhãn tạng giao phó cho ông. Nay ta sắp ẩn, đúng lúc giao phó cho ông, ông phải khéo gìn giữ chớ để đoạn dứt.
Ngài nhớ lời Phật dặn giữ gìn y bát của Phật đợi đến Phật Di-Lặc ra đời sẽ trao lại, nên dự bị vào núi Kê-Túc nhập định. Liền đó, Ngài đi từ giả vua A-Xà-Thế và những người thân thuộc, rồi vào núi Kê-Túc trải tòa cỏ ngồi an nhiên nhập định.  Nguồn (website Trúc lâm tây thiên )


Triết lý âm dương

Triết lý âm dương  
                                                                                            Giảng sư  T.T Thích Chân Quang
Triết lý âm dương là một nền tảng triết lý được ứng dụng trong nhiều bộ môn văn hóa phương Đông như Phong Thủy, Tử vi, Kinh Dịch, Bát Tự hoặc nhiều môn dự đoán khác.  Với lịch sử hàng nghìn năm các phương pháp tư duy, vận dụng triết lý này vẫn thể hiện sự đúng đắn trong nhiều bộ môn khoa học ứng dụng, như võ thuật, đông y, phong thủy....
Tìm hiểu triết lý âm dương dưới góc nhìn của Đạo Phật giúp bạn có cái nhìn sâu sắc và rút ra nhiều bài học để áp dụng trong cuộc sống và con đường tu tập và phát triển tâm linh.

Một số điều bạn có thể học được...


* Phân chia âm dương
Mọi hình thể đều tồn tại hai mặt, trên dưới, trước sau, đó là một khái niệm về âm dương. Hiểu được kiến thức về phân chia âm dương giúp bạn nhìn được hai mặt của vấn đề.
* Nguyên lý của quy luật âm dương
Xác định được điều gì là quan trọng và mối quan hệ, tương tác của âm dương.
Bí quyết về tìm hiểu con người qua góc nhìn âm dương?
Tại sao thuốc Bắc chủ yếu lại gồm rễ cây?
Muốn xây dựng sự nghiệp thành công thì phải làm như thế nào?
Áp dụng quy luật âm dương trong dinh dưỡng, phát triển sức khỏe.